Hệ thống radar của những máy bay F-15 thu thập được tín hiệu của máy bay vận tải DHC-5 Buffalo cách không phận Địa Trung Hải 370 dặm. Những chiếc F-15 nhanh chóng tiến gần đến máy bay vận tải, các phi công đọc được số hiệu trên đuôi máy bay cũng như những dấu hiệu xanh và nâu, họ cảm thấy đã nhận diện đúng chiếc máy bay cần tìm.
Phi công dẫn đầu hỏi nhanh qua đài vô tuyến: Chúng tôi có được phép tấn công không? Đó là buổi chiều 23-10-1982. Sâu bên dưới lòng đất của trung tâm thủ đô Tel Aviv của Israel, trong căn cứ điều khiển và chỉ huy của lực lượng không quân Israel, mật danh là Canary, câu hỏi của phi công vang lên trong chiếc loa phóng thanh.
Mọi con mắt đổ dồn vào sĩ quan chỉ huy. Mọi người mong chờ một mệnh lệnh khai hỏa, nhưng Tư lệnh không quân, Thiếu tướng David Ivry - người ra quyết định, đã do dự.
Ông ta biết rằng, các phi công của ông có mọi yếu tố cần thiết: một mục tiêu nhận diện rõ ràng, một phát bắn trên bầu trời giữa đại dương mênh mông.
Việc bắn hạ chiếc máy bay và vị khách trên đó đã được Bộ trưởng Quốc phòng Ariel Sharon ra lệnh. Công việc của họ, của Ivry là loại bỏ mục tiêu chứ không phải lựa chọn nữa. Nhưng những nghi ngờ đã ngăn Ivry lại. Ông ta nói với phi công: “Không khai hỏa”.
Ngày 13-9-1993, người đứng đầu Nhà nước Palestine Yasser Arafat (bìa phải) bắt tay Thủ tướng Israel Yitzhak Rabin dưới sự chứng kiến và trung gian hòa giải của Tổng thống Mỹ Bill Clinton sau khi đạt được những nguyên tắc cơ bản từ Thỏa thuận Hòa bình Oslo
Chiến dịch quân sự ám sát Yasser Arafat, Chủ tịch Tổ chức Giải phóng Palestine (PLO), đã được Mossad - Cơ quan Tình báo dân sự Israel đưa ra ngày hôm trước. Tsomet, một đơn vị của Mossad, chịu trách nhiệm tuyển dụng và điều hành các cơ sở tình báo ở nước ngoài, nhận báo cáo từ 2 người cung cấp thông tin ở PLO rằng, Arafat có thể đáp chuyến bay từ Athens đi Cairo trên máy bay cá nhân vào ngày hôm sau.
Caesarea, một đơn vị khác của Mossad, có trách nhiệm thực hiện nhiệm vụ tiêu diệt mục tiêu, ngay lập tức cử 2 nhóm bay sang Athens chờ ông Arafat ở khu vực bãi đậu của máy bay tư nhân.
Lực lượng phòng không cử 2 máy bay chiến đấu F-15 sẵn sàng xuất kích từ căn cứ quân sự Tel Nof. Ivry, luôn thận trọng, dặn dò phi công chỉ huy rất kỹ: “Anh không được bắn khi không có lệnh của tôi. Thậm chí khi vấn đề liên lạc trục trặc, hoặc khi anh không nghe được lệnh tôi thì anh không được bắn”. Ông ta hiểu rằng, sẽ là thảm họa nếu Israel bắn nhầm máy bay.
Vào lúc 2 giờ chiều 23-10, một nhóm của Caesarea ở Athens gọi về tổng hành dinh Mossad: “Ông ta đang ở đây. ID đã xác nhận”. Giọng anh ta nghe rất phấn khích. Anh ta báo cáo rằng đã nhìn thấy nhà lãnh đạo PLO và các vệ sĩ chuẩn bị lên chiếc máy bay DHC-5 Buffalo có đuôi sơn màu xanh và nâu, số hiệu đăng ký là 1169. Mossad chuyển thông tin đến đơn vị Canary. Tuy nhiên với Ivry, có gì đó không ổn…
Hai nhân viên Caesarea một lần nữa khẳng định đúng là Arafat. “Đối tượng đã để râu dài hơn để đánh lừa các cơ quan tình báo”, họ báo cáo. Và Mossad khẳng định lại lần nữa nhận dạng của Arafat.
Lúc 4 giờ 30 phút chiều, các nhân viên tình báo báo cáo máy bay đã cất cánh. Ivry ra lệnh các máy bay F-15 cất cánh và họ không mất nhiều thời gian để đánh chặn chiếc máy bay vận tải chậm chạp. Khi các chiến đấu cơ đến gần chiếc DHC-5 Buffalo, Ivry vẫn còn nghi ngờ.
Ông ta yêu cầu xác nhận lần thứ hai rằng chính Arafat đi trên chiếc máy bay đó chứ không phải một người nào đó giống ông ấy. “Ivry ít khi thể hiện bất kỳ cảm xúc nào nhưng chúng tôi thấy ông ấy tỏ vẻ lo lắng rất nhiều”, một người dưới quyền Ivry từng có mặt ở đó kể lại. Ivry không thể chần chờ lâu hơn nữa.
Ông đã nhận được mệnh lệnh trực tiếp nếu không hạ máy bay đó phải giải thích với Eitan (Rafi Eitan - Trưởng bộ phận hoạt động của Mossad ở châu Âu) và Sharon. Căng thẳng lên tột độ.
5 giờ kém 5 phút - 25 phút sau khi chiến đấu cơ cất cánh, chuông điện thoại đổ vang ở trung tâm. Đó là đường dây kết nối an toàn trực tiếp với Mossad.
Mossad có nguồn tin khác khẳng định Arafat không ở Hy Lạp và rằng người đàn ông trên máy bay không phải là Arafat. Không có mệnh lệnh nào khác, 2 chiến đấu cơ tiếp tục theo dõi chiếc Buffalo.
Ivry yêu cầu họ tiếp tục hãy để mắt tới mục tiêu và chờ đợi. 5 giờ 23 phút, một báo cáo khác được gửi đến.
Các nguồn tin từ Mossad và AMAN cho biết, người đàn ông trên chiếc máy bay là em trai Yasser Arafat, bác sĩ nhi khoa Fathi Arafat, người sáng lập Hiệp hội Trăng lưỡi liềm đỏ Palestine.
Đi cùng ông ấy là 30 trẻ em Palestine bị thương trong vụ thảm sát mà quân đội Do Thái thực hiện tại các trại tị nạn ở Lebanon cách đó 1 tháng. Fathi Arafat đang đưa các em đến Cairo để chữa trị. Ivry thở phào nhẹ nhõm: “Quay lại, các anh về nhà thôi”.
Sau khi xảy ra thảm họa suýt giết nhầm 1 bác sĩ và 30 trẻ em chỉ bằng cái ấn tay của phi công, Bộ trưởng Ariel Sharon vẫn không chùn bước mà còn liều lĩnh hơn.
Khi Mossad báo cáo rằng, Arafat thường đi trên các chuyến bay thương mại, đoàn của ông thường mua toàn bộ khoang hạng nhất, Sharon quyết định chọn mục tiêu là các chuyến bay đó.
Máy bay có thể bị bắn hạ ngay trên đại dương, cách xa bờ biển, để các nhà điều tra mất nhiều thời gian thu thập chứng cứ xác định đó là tên lửa tấn công hay tai nạn thông thường.
Không quân lên kế hoạch chi tiết. Họ phát hiện một “vùng đỏ” trên Địa Trung Hải nơi không lưu luôn bận rộn nhưng không có radar nước nào phủ sóng tới và nước biển sâu 3 dặm nên việc cứu hộ cũng rất khó khăn, dường như là không thể.
Thực hiện cuộc tấn công ở vị trí này rất lý tưởng nhưng cơ hội cũng rất hẹp. Vì hoạt động sẽ diễn ra cách xa không phận Israel, ngoài phạm vi rà quét của radar Israel, không quân sẽ phải thiết lập một căn cứ chỉ huy trên không dưới hình thức 1 chiếc Boeing 707 được trang bị radar và thiết bị liên lạc. Sella được giao chỉ huy chiến dịch này.
Theo lệnh của Sharon, việc theo dõi Arafat được duy trì thường xuyên và 4 chiếc F-16, F-15 luôn được đặt trong tình trạng báo động. Sau 9 tuần, từ tháng 11-1982 đến đầu tháng 1-1983, các chiến đấu cơ đã được lệnh xuất kích 5 lần nhưng ngay sau đó thì được gọi trở lại.
Một số ít tướng lĩnh phản đối chiến dịch này vì cho rằng, Sharon cần đánh giá các mối quan hệ chính trị, quân sự và kinh tế vì nó sẽ hủy hoại đất nước ở tầm quốc tế nếu như cả thế giới biết Israel đã bắn hạ chiếc máy bay dân sự.
Trong một số trường hợp, các chỉ huy không quân cũng bất tuân lệnh bằng cách đổ thừa cho các yếu tố kỹ thuật.
Trong một lần, chiếc máy bay nghi chở Arafat từ Amman đến Tunisia qua Địa Trung Hải, các chiến đấu cơ Israel ép sát và xin lệnh khai hỏa.
Eitan hỏi Gilboa, Chỉ huy Cục Nghiên cứu của AMAN, liệu ông có chắc chắn Arafat đang trên máy bay. Gilboa phân tích một đống thông tin chắc và không chắc.
Eitan hết kiên nhẫn và hét lên: “Gilboa, hãy nói có hay không?”. Gilboa nói: “Cảm nhận của tôi là không có ông ta trên đó”. Eitan nhấc điện thoại gọi Sharon: “Chiến dịch sẽ phải chờ vào một ngày khác”.
Một trường hợp khác, những người điều khiển radio trên Trạm chỉ huy bay - không lực Boeing 707 đã cố tình thiết lập sai tần số, làm mờ thông tin liên lạc đủ lâu để chiến dịch không thể xảy ra.
Có lần, các sĩ quan chỉ huy chỉ đơn giản là đánh lừa Eitan, thông báo rằng máy bay mục tiêu được xác định quá muộn, nếu đánh chặn sẽ bị phát hiện. Cũng nhiều trường hợp các chuyên gia đã cố tình kéo dài thời gian cho chiếc máy bay ra khỏi “vùng đỏ”.