Có dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp
Theo VKS, trước ngày 15-9-2022, bị cáo Hoàng Văn Hưng là Trưởng phòng 5, điều tra viên thụ lý chính vụ án “chuyến bay giải cứu”. Khi được bị cáo Nguyễn Anh Tuấn (cựu Thiếu tướng, cựu Phó Giám đốc Công an TP Hà Nội) liên hệ, sắp xếp, Hưng đã nhiều lần gặp bị cáo Nguyễn Thị Thanh Hằng (cựu Phó Tổng Giám đốc Công ty Bluesky) tại nhà Tuấn..
Khi được Hằng nhờ giúp để Hằng và Lê Hồng Sơn (cựu Tổng Giám đốc Công ty Bluesky) không bị xử lý hình sự, Hưng đã hướng dẫn Hằng tự thú, hướng dẫn Hằng và thông qua Hằng hướng dẫn Sơn thống nhất nội dung khai báo theo hướng Hằng nhận hết trách nhiệm trong việc đưa hối lộ cho các cá nhân có thẩm quyền trong việc cấp phép, phê duyệt các chuyến bay và cách ly y tế để được hưởng chính sách khoan hồng của pháp luật, còn Sơn không liên quan đến hành vi này nên sẽ không phải chịu trách nhiệm.
Đại diện VKS đề nghị tiếp tục điều tra ở giai đoạn 2 vụ án đối với dấu hiệu xâm phạm hoạt động tư pháp |
Việc Hưng gặp, trao đổi với Hằng, Tuấn đã tạo sự tin tưởng cho Hằng trong việc Hưng có thể giúp để Hằng và Sơn không bị xử lý hình sự. Do đó, trong giai đoạn này, Hằng và Sơn đã đưa cho Tuấn 1,65 triệu USD để Tuấn đưa cho Hưng. Mặc dù bị cáo Tuấn khai đã đưa cho bị cáo Hưng 1,25 triệu USD, nhưng kết quả điều tra vụ án và thẩm vấn tại phiên tòa chưa đủ căn cứ kết luận bị cáo Hưng đã nhận số tiền này.
Bị cáo Hưng thừa nhận có cho bị cáo Tuấn biết Hưng là điều tra viên thụ lý chính vụ án và Công ty Bluesky của Hằng, Sơn đang bị điều tra; Hưng có gặp Hằng, Tuấn nhiều lần tại nhà Tuấn, hướng dẫn Hằng, Sơn khai báo đối phó với cơ quan điều tra. Hành vi này có dấu hiệu của tội xâm phạm hoạt động tư pháp, VKS kiến nghị tiếp tục xác minh làm rõ để xử lý trong giai đoạn sau của vụ án.
Liên quan tới vụ việc này, VKS cho biết, ngày 16-9-2022, Hoàng Văn Hưng bị điều chuyển công tác từ Trưởng phòng 5 sang Trưởng phòng 2, Cục An ninh điều tra Bộ Công an, không còn nhiệm vụ, quyền hạn, thẩm quyền trong việc điều tra, giải quyết vụ án.
Tuy nhiên, Hưng vẫn nhiều lần gặp Tuấn, Hằng tại nhà Tuấn để cung cấp một số thông tin giải quyết vụ án liên quan đến Hằng, Sơn mà Hưng nắm được; tiếp tục hứa hẹn về việc “lo” cho Hằng, Sơn không bị xử lý hình sự; hướng dẫn Hằng và thông qua Hằng hướng dẫn Sơn cách thức khai báo khi làm việc với điều tra viên; đưa ra những lý do không đúng thực tế, như phải chi tiền cho các cá nhân ở các đơn vị khác, để các cá nhân có liên quan ủng hộ quan điểm không xử lý hình sự đối với Hằng, Sơn; thông tin sai sự thật về vai trò của Hưng đối với việc điều tra, xử lý vụ án là Hưng vẫn “kiểm soát được tình hình”, vẫn chỉ đạo điều tra và trực tiếp báo cáo đề xuất chủ trương xử lý vụ án; thông qua Tuấn, yêu cầu Hằng chuyển cho Hưng 800.000 USD. Theo VKS, Hằng, Sơn đã đưa cho Tuấn 1 triệu USD trong giai đoạn này; Tuấn chuyển cho Hưng 800.000 USD.
Tại cơ quan điều tra và tại phiên tòa, các bị cáo Hằng, Sơn, Tuấn đều khai nhận diễn biến, nội dung sự việc như trên, cụ thể: Khi biết Hưng không còn là Trưởng phòng 5, Hằng và Tuấn đều hỏi Hưng về việc Hưng chuyển công tác thì có ảnh hưởng gì đến việc lo cho Hằng, Sơn không bị xử lý hình sự hay không, Hưng vẫn khẳng định lo được cho Hằng và Sơn.
Do tin tưởng Hưng giúp được, nên Hằng, Sơn đã đưa tiền cho Tuấn để Tuấn đưa cho Hưng. Bị cáo Tuấn khai đã nhận của Hằng 1 triệu USD và chuyển cho Hưng toàn bộ số tiền này. Trong suốt quá trình điều tra và tại phiên tòa, bị cáo Hưng không thừa nhận đã thực hiện hành vi lừa đảo chiếm đoạt tài sản và đã nhận tiền từ bị cáo Tuấn.
Tuy nhiên, căn cứ kết quả điều tra như kết quả thực nghiệm, lời khai khách quan của các bị cáo, nhân chứng, camera, list điện thoại và thẩm vấn tại phiên tòa, VKS có căn cứ xác định bị cáo Tuấn nhận của bị cáo Hằng 1 triệu USD và chuyển cho bị cáo Hưng 800.000 USD. Bị cáo Hưng nhận của bị cáo Tuấn 800.000 USD và chiếm đoạt số tiền này.
Phương thức liên lạc giữa 3 người
VKS cho hay, quá trình thực hiện hành vi phạm tội, Hoàng Văn Hưng, Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Thanh Hằng đã liên lạc, gặp gỡ, nhận tiền theo phương thức khi có việc cần trao đổi, liên hệ, Hưng chủ yếu sử dụng 2 sim “rác” không chính chủ liên lạc, trao đổi với Tuấn qua 2 số điện thoại của Tuấn hoặc liên lạc qua ứng dụng Viber; Hằng cũng dùng sim “rác” (Hằng dùng nhiều sim, thay đổi liên tục) hoặc ứng dụng Viber liên lạc với Tuấn để đảm bảo bí mật. Bên cạnh đó, Hưng yêu cầu Hằng không được trực tiếp liên lạc với Hưng, mọi nội dung cần trao đổi sẽ thực hiện thông qua Tuấn.
Kết quả điều tra xác định giữa Nguyễn Anh Tuấn, Hoàng Văn Hưng và Nguyễn Thị Thanh Hằng có lịch sử liên lạc. Giữa Hoàng Văn Hưng và Nguyễn Anh Tuấn, từ năm 2019 đến trước ngày 1-1-2022, chỉ phát sinh 5 cuộc gọi. Tuy nhiên, từ ngày 1-1-2022 đến 31-12-2022 (giai đoạn điều tra vụ án “chuyến bay giải cứu”), Tuấn và Hưng liên lạc với nhau 435 lần, chủ yếu phát sinh cuộc gọi qua ứng dụng Viber và sim “rác” của Hưng.
Bị cáo Hoàng Văn Hưng tại phiên tòa |
Giữa Nguyễn Anh Tuấn và Nguyễn Thị Thanh Hằng có 2 cuộc gọi qua thuê bao di động vào tháng 2-2022 và 76 cuộc gọi qua ứng dụng Viber vào tháng 12-2022 giữa 2 số điện thoại chính của Hằng. Cùng với đó, Hằng và Tuấn liên lạc nhiều lần qua các sim “rác”, nên không xác định được số thuê bao cụ thể. Giữa Hoàng Văn Hưng và Nguyễn Thị Thanh Hằng không phát sinh bất kỳ cuộc gọi nào.
VKS cũng cho hay, việc gặp mặt để trao đổi, đưa nhận tiền để “lo” cho Hằng và Sơn không bị xử lý hình sự được tổ chức thực hiện thường vào buổi tối, chủ yếu là sau 20 giờ, tại nhà của Nguyễn Anh Tuấn để đảm bảo bí mật.
Việc yêu cầu, giao nhận tiền được thực hiện theo phương thức: Hoàng Văn Hưng không đưa ra tổng số tiền sẽ nhận mà chia ra làm nhiều lần theo tiến trình điều tra vụ án, kéo dài từ tháng 2-2022 đến tháng 12-2022, trung bình mỗi tháng 1 lần. Khi có yêu cầu lấy tiền, Hưng nói lý do với Tuấn hoặc với cả Hằng và Tuấn, nhưng không thông báo số tiền cụ thể với Hằng mà nói với Tuấn (khi gặp riêng giữa Tuấn và Hưng hoặc qua điện thoại) để Tuấn nói lại với Hằng.
Khi đưa tiền, theo yêu cầu của Hưng, Hằng không được đưa trực tiếp cho Hưng mà phải đưa cho Tuấn, sau đó Tuấn đưa lại cho Hưng. VKS cho hay, có đủ căn cứ để kết luận: Các bị cáo Lê Hồng Sơn, Nguyễn Thị Thanh Hằng đã đưa hối lộ 2,65 triệu USD, tương đương 61,6 tỷ đồng; bị cáo Hoàng Văn Hưng lừa đảo chiếm đoạt 800.000 USD, tương đương 18,8 tỷ đồng