Tọa đàm “Hướng tới Hội nghị Bộ trưởng UNCTAD 16: Tương lai của Thương mại và Phát triển toàn cầu trong Kỷ nguyên Thông minh” được WEF thiết kế riêng cho Việt Nam nhằm thảo luận về xu hướng của thương mại và đầu tư toàn cầu; đồng thời xây dựng chương trình nghị sự cho Hội nghị Bộ trưởng UNCTAD 16 do Việt Nam đăng cai, dự kiến vào cuối năm 2025.
Phát biểu dẫn đề, Tổng Thư ký UNCTAD Rebeca Grynspan bày tỏ ấn tượng về thành tích tăng trưởng của Việt Nam, đạt 7% trong vòng 30 năm qua. Tổng Thư ký UNCTAD khẳng định việc Hội nghị UNCTAD 16 được tổ chức tại một quốc gia phát triển năng động nhờ mở cửa, hội nhập thành công như Việt Nam đánh dấu bước ngoặt có ý nghĩa trong trong giai đoạn mới của UNCTAD.
Tại tọa đàm, Thủ tướng Chính phủ cho rằng phải nắm bắt kỷ nguyên thông minh một cách tổng thể từ bốn khía cạnh khác nhau, gồm từ khía cạnh địa chính trị, an ninh là hòa bình, hợp tác; từ khía cạnh kinh tế là phát triển nhanh và bền vững; từ khía cạnh môi trường là khai thác sử dụng bền vững; từ khía cạnh xã hội là tiến bộ, công bằng xã hội, không để lại ai phía sau. Việt Nam phải chuẩn bị nguồn lực sẵn sàng cho kỷ nguyên mới với cách tiếp cận nguồn lực bắt nguồn từ tư duy, tầm nhìn, động lực bắt nguồn từ sự đổi mới, sức mạnh bắt nguồn từ nhân dân, doanh nghiệp.
Tại Phiên Đối thoại chính sách đặc biệt với chủ đề “Bứt phá tới tương lai: Tầm nhìn của Việt Nam về đổi mới sáng tạo và vai trò toàn cầu”, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã truyền tải thông điệp mạnh mẽ về một Việt Nam là lựa chọn chiến lược hấp dẫn cho các nhà đầu tư nước ngoài trong bối cảnh cạnh tranh nước lớn và nhờ vào thành tựu phát triển kinh tế qua 40 năm đổi mới, ý chí và quyết tâm cùng với các chính sách phát triển đột phá nhằm nắm bắt cơ hội trong kỷ nguyên thông minh để khoa học công nghệ và đổi mới sáng tạo, chuyển đổi số trở thành nguồn lực đưa kinh tế Việt Nam đạt được mục tiêu trở thành nền kinh tế phát triển, có thu nhập cao vào năm 2045.
Để chuẩn bị cho kỷ nguyên thông minh, Thủ tướng Phạm Minh Chính cho biết Việt Nam chủ trương thúc đẩy hoàn thiện thể chế, pháp luật, tạo điều kiện thuận lợi cho các chủ thể phát triển bình đẳng trong nền kinh tế nhiều thành phần, xác định phát triển trí tuệ nhân tạo Việt Nam phải dựa trên cơ sở dữ liệu của Việt Nam. Nghị quyết 57 mới ban hành về phát triển khoa học công nghệ, đổi mới sáng tạo và chuyển đổi số sẽ tạo cú hích mạnh mẽ cho đầu tư vào nghiên cứu phát triển.
Chính phủ Việt Nam cũng chú trọng đảm bảo quyền sở hữu trí tuệ nhằm tạo khuôn khổ pháp lý bình đẳng cho các nhà đầu tư nước ngoài trong lĩnh vực công nghệ. Thủ tướng chia sẻ Chính phủ Việt Nam đã và đang nỗ lực thúc đẩy đầu tư, huy động nguồn lực xã hội, doanh nghiệp cho phát triển hạ tầng giao thông, hạ tầng thông minh, dự kiến hoàn thành xây dựng trung tâm dữ liệu quốc gia trong tháng 6-2025.
Các thông điệp của Thủ tướng Phạm Minh Chính đã nhận được sự đánh giá cao của các đại biểu tham dự.
Việt Nam - Thụy Sĩ nâng cấp quan hệ lên Đối tác toàn diện
Ngày 21-1, Thủ tướng Phạm Minh Chính đã hội đàm với Tổng thống Thụy Sĩ Karin Keller-Sutter, nhân dịp tham dự Hội nghị thường niên Diễn đàn Kinh tế thế giới - WEF tại Davos, Thụy Sĩ.
Tại hội đàm, hai nhà lãnh đạo nhất trí nâng quan hệ song phương lên Đối tác toàn diện. Bà Karin Keller-Sutter ghi nhận vai trò ngày càng tăng của Việt Nam với tư cách là đối tác khu vực quan trọng của Thụy Sĩ. Việt Nam - Thụy Sĩ sẽ tăng cường hợp tác kinh tế, cũng như thực hiện các bước cụ thể nhằm sớm kết thúc đàm phán Hiệp định Thương mại tự do giữa Việt Nam và Hiệp hội Mậu dịch tự do châu Âu (EFTA).
Hai quốc gia sẽ phối hợp trong các lĩnh vực như đổi mới sáng tạo, tài chính xanh, sở hữu trí tuệ, trao đổi kinh nghiệm xây dựng và phát triển trung tâm tài chính quốc tế tại Việt Nam. Tổng thống Keller-Sutter cho biết Thụy Sĩ tiếp tục hỗ trợ Việt Nam thông qua Chương trình Hợp tác phát triển giai đoạn 2025-2028.
Việt Nam - Thụy Sĩ tiếp tục xem xét tiềm năng mở rộng các sáng kiến hợp tác học thuật chung, chương trình đào tạo và hợp tác du lịch. Đổi mới sáng tạo, khoa học và công nghệ, chia sẻ tri thức là những lĩnh vực ưu tiên cho hợp tác song phương. Hai bên tái khẳng định tầm quan trọng của hợp tác tại các diễn đàn đa phương, tăng cường các nỗ lực giải quyết các thách thức toàn cầu, bao gồm bảo vệ môi trường, hành động ứng phó với biến đổi khí hậu và an ninh nguồn nước.
Hai nước tái khẳng định tầm quan trọng của việc duy trì hòa bình, ổn định, an ninh, an toàn, tự do hàng hải và hàng không ở Biển Đông và việc giải quyết các tranh chấp bằng biện pháp hòa bình theo luật pháp quốc tế, đặc biệt là Công ước của Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982 (UNCLOS 1982).