Năng lực nghiên cứu của Việt Nam còn khiêm tốn
GS Nguyễn Văn Tuấn, ĐH New South Wales (Australia) làm nóng hội thảo với báo cáo những thước đo để đánh giá nhà khoa học và các đại học. GS cho biết, ở các đại học phương Tây, người ta thường dùng 3 chỉ số chính để đánh giá năng lực một nhà khoa học gồm: số lượng ấn phẩm khoa học, hệ số ảnh hưởng (Impact factor, thường viết tắt là IF) và chỉ số Hirsch (viết tắt là H index).
Một số lớn các trường đại học phương Tây thường dựa vào số lượng bài báo khoa học như là một tiêu chuẩn để xét duyệt đề bạt các chức danh khoa bảng. Tuy không có quy định cụ thể là ứng viên phải có bao nhiêu bài báo để được xét duyệt, nhưng thông thường, ví dụ trong ngành y, những con số được “hiểu ngầm” như giáo sư dự khuyết (assistant professor) phải có từ 5 bài báo trở lên; phó giáo sư thì ít nhất là 30; giáo sư thì ít nhất là 50, nhưng thường là 100.
Các viện nghiên cứu khoa học, trường đại học, các trang mạng chuyên về khoa học như Research Gate, Google Scholar... thường dùng tổng số trích dẫn mà một nhà khoa học được các nhà khoa học khác trích dẫn (H index) như là một thước đo vàng về “cấp bậc” trong khoa học. Ngày nay, các tập san khoa học danh tiếng như Nature, Science, Cell, PNAS… và các cơ quan quản lý khoa học ở châu Âu, châu Mỹ, Australia đều sử dụng chỉ số H index để làm cơ sở cho đề bạt, cấp tài trợ và đánh giá thành công của một nhà khoa học hay một nhóm nghiên cứu…
GS Nguyễn Văn Tuấn mong muốn cung cấp cho các hội đồng khoa bảng và đại học một số thước đo để đánh giá năng lực nhà khoa học chính xác và khách quan hơn. Áp dụng các chỉ số trên để đánh giá hoạt động khoa học của một đại học hay trung tâm nghiên cứu cũng là một hình thức giúp khoa học nước ta hội nhập quốc tế.
TS Lê Văn Út, Trưởng phòng Quản lý khoa học và công nghệ Trường ĐH Tôn Đức Thắng thống kê: Cơ sở dữ liệu Web of Science (WoS) được xem là cơ sở dữ liệu hàng đầu thế giới về thông tin khoa học. WoS được sở hữu bởi Clarivate (Mỹ), hiện WoS có dữ liệu của 16.257 tạp chí uy tín hàng đầu thế giới từ tất cả các chuyên ngành. Tuy nhiên, hiện nay rất ít các trường đại học, viện nghiên cứu ở Việt Nam mua quyền truy cập WoS.
Phân tích năng lực khoa học của Việt Nam, TS Lê Văn Út cho rằng, thành tựu về nghiên cứu khoa học là thước đo chính cho sự phát triển của một quốc gia, đẳng cấp của một đại học và của nhà khoa học. Trích từ dữ liệu WoS cho thấy, trong giai đoạn 2014-2018, công bố khoa học quốc tế của Việt Nam có bước phát triển đáng kể. Năm 2014 có 3.482 bài nhưng đến 2018 cả nước có 6.187 bài thuộc danh mục ISI. Tuy nhiên, kết quả này cũng chỉ giúp VN đứng giữa bảng xếp hạng của khu vực Đông Nam Á.
Dẫn đầu là Malaysia với hơn 114.000 bài, Singapore hơn 99.000 bài, Thái Lan hơn 63.000, Indonesia hơn 47.000… Công bố khoa học từ Việt Nam tăng nhanh trong thời gian 5 năm qua (18% năm, một sự tăng trưởng rất cao) nhưng số lượng vẫn rất thấp (chỉ cao hơn Philippines). Một điều đáng chú ý nữa là đa số (gần 80%) công bố khoa học từ Việt Nam là do hợp tác quốc tế. Do đó, chất lượng nghiên cứu của Việt Nam còn khiêm tốn.
Phải xây dựng bảng xếp hạng của Việt Nam
TS Nguyễn Quốc Chính, Giám đốc Trung tâm Khảo thí và đánh giá chất lượng thuộc ĐH Quốc gia TPHCM cho rằng, xếp loại, xếp hạng các cơ sở giáo dục đại học (GDĐH) đang trở thành xu thế mang tính toàn cầu, thu hút được sự quan tâm của các nhà quản lý giáo dục, giới học thuật và các bên liên quan khác trong xã hội. Động lực chủ yếu của xu thế này là yêu cầu nâng cao hơn nữa chất lượng và trách nhiệm giải trình của các cơ sở GDĐH trong bối cảnh một thế giới cạnh tranh và thay đổi nhanh chóng.
Hoạt động này mang đến nhiều lợi ích thiết thực khi cung cấp cho các bên liên quan những thông tin hữu ích để đánh giá chất lượng cũng như làm cơ sở cho việc cải tiến chất lượng của cơ sở GDĐH. Đến nay, trên thế giới đã có hơn 60 hệ thống xếp hạng cấp quốc gia, khu vực và quốc tế, thu hút được sự quan tâm của chính phủ, các nhà nghiên cứu, nhà quản lý giáo dục, phụ huynh, học sinh và các doanh nghiệp, xã hội. TS Nguyễn Quốc Chính thẳng thắn: “Với bảng xếp hạng ARWU (Trung Quốc), THE (Hoa Kỳ) chúng ta không đủ năng lực nên tham gia vô ích. Do đó, hiện nay chúng ta chọn QS (của Anh) hướng cho cả thế giới và châu Á thì phù hợp nhất”.
Dẫn chứng thực tế, TS Nguyễn Quốc Chính cho rằng, rất nhiều quốc gia đã có bảng xếp hạng và trong khu vực Malaysia cũng đã có nhưng Việt Nam thì chưa. Tại Việt Nam, nội dung phân tầng xếp hạng các cơ sở GDĐH đã được quy định trong Luật Giáo dục đại học năm 2012 và quy định cụ thể hóa thông qua Nghị quyết số 73/2015/NQ-CP về việc Quy định tiêu chuẩn phân tầng, khung xếp hạng và tiêu chuẩn xếp hạng các cơ sở GDĐH.
Tuy nhiên, quá trình triển khai thực tế bộc lộ nhiều bất cập, dẫn đến những ý kiến trái chiều về tính khả thi và độ giá trị của hoạt động phân tầng xếp hạng. Nhiều vấn đề đã được xác định nhưng chưa có phương án giải quyết phù hợp. Với những lập luận trên, TS Chính cho rằng, Việt Nam phải bắt tay xây dựng ngay những quy chuẩn về xếp hạng đại học để đánh giá trung thực, khách quan các đại học thì mới có thể nói đến phân tầng, đầu tư cho thỏa đáng.
Chia sẻ với TS Chính, GS Nguyễn Văn Tuấn cho rằng: “Về bảng xếp hạng của quốc gia, tôi kiến nghị phải đảm bảo được 4 mục tiêu: khẳng định được uy tín của các trường đại học Việt Nam, tăng tính toàn cầu hóa, nâng cao chất lượng nghiên cứu và đào tạo, nâng cao năng lực khoa học và công bố quốc tế của Việt Nam”.
GS Nguyễn Hữu Đức, Phó giám đốc ĐH Quốc gia Hà Nội, cho rằng sứ mệnh của các đại học Việt Nam phải là một hệ sinh thái đổi mới, sáng tạo, thông minh, ứng dụng hiệu quả các công nghệ 4.0 phục vụ đào tạo và nghiên cứu. Đào tạo phải hướng đến nguồn nhân lực có tinh thần khởi nghiệp. Khoa học và công nghệ phải là động lực của đổi mới sáng tạo và phát triển quốc gia.