1. Trong 35 năm đổi mới, nhất là thập niên gần đây, Đảng ta đã ban hành nhiều nghị quyết, kết luận, chỉ thị về văn hóa. Đặc biệt Nghị quyết Trung ương 5, Khóa 8 (1998), Kết luận của Hội nghị Trung ương 10, Khóa 9 và Nghị quyết Trung ương 9, Khóa 11. Đại hội XII của Đảng (2016) đã tiến hành tổng kết 30 năm Đổi mới ở nước ta; Đại hội XIII (2021) tổng kết 20 năm thực hiện Cương lĩnh, trong đó đều đề cập đến văn hóa. Đảng ta đã nhận định: Các văn bản pháp lý, cơ chế, chính sách văn hóa, con người từng bước được đổi mới, hoàn thiện. Từ năm 1998 đến nay, Quốc Hội đã ban hành 16 luật, Chính phủ đã ban hành 68 nghị quyết, nghị định, quyết định, thông tư văn hóa. Qua đó, đường lối văn hóa của Việt Nam đã được xác định rõ ràng. Tiêu biểu là:
- Xác định Văn hóa Việt Nam là nền tảng tinh thần của xã hội, vừa là mục tiêu, vừa là động lực, là nguồn lực nội sinh của phát triển.
- Văn hóa có vị trí “soi đường cho quốc dân đi”, là một đặc trưng tạo nên Chủ nghĩa Xã hội, là thành tố hữu cơ không thể thiếu của Chủ nghĩa Xã hội Việt Nam. Bác Hồ dạy “Trong công cuộc kiến thiết nước nhà có 4 vấn đề phải chú ý đến, cùng phải coi trọng ngang nhau: chính trị, kinh tế, xã hội, văn hóa”. Nghị quyết TW 9 Khóa XI nhấn mạnh “Văn hóa phải được đặt ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội”. Do vậy, phải phát triển hài hòa giữa kinh tế và văn hóa, chú ý đầy đủ yếu tố văn hóa, con người trong phát triển kinh tế, thực thi chính sách kinh tế trong văn hóa, văn hóa trong kinh tế …
- Chức năng của văn hóa là bồi dưỡng tư tưởng đúng đắn và tình cảm cao đẹp, nâng cao dân trí, bồi dưỡng những phẩm chất tốt đẹp, những phong cách lối sống lành mạnh, hướng con người tới chân thiện mỹ. Nhận thức về mối quan hệ giữa xây dựng văn hóa và xây dựng con người ngày càng sâu sắc hơn. Phát triển văn hóa vì sự hoàn thiện nhân cách con người, xây dựng con người để thúc đẩy phát triển văn hóa. Con người là chủ thể sáng tạo, truyền bá, thụ hưởng văn hóa, là trung tâm của chiến lược phát triển.
- Tính chất văn hóa Việt Nam là tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc, thống nhất trong đa dạng của cộng đồng các dân tộc Việt Nam. Từ 1943, đã xác định các đặc trưng dân tộc, khoa học đại chúng; nay nâng lên là dân tộc, nhân văn, dân chủ, khoa học.
Đó là hệ quan điểm đúng đắn, rõ ràng, nhất quán trong các văn kiện, các chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước ta về Văn hóa.
2. Vậy, tại sao từ đánh giá chính thức của Nhà nước đến dư luận xã hội đều nhận định là trong lúc kinh tế đất nước có sự phát triển khá, đời sống vật chất của nhân dân không ngừng được cải thiện, vận nước cũng tăng lên nhưng văn hóa ngày càng sa sút. Nhẹ thì cho rằng “so với những thành tựu đạt được về chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng, an ninh, đối ngoại, thành tựu phát triển văn hóa, xây dựng con người chưa tương xứng”. Những thành tựu đạt được trong lĩnh vực văn hóa còn hạn chế, chưa bền vững, chưa đủ tầm mức để tác động có hiệu quả đến quá trình xây dựng con người và các lĩnh vực của đời sống xã hội, nhất là tư tưởng, đạo đức, lối sống. Những yếu kém hạn chế trong lĩnh vực văn hóa được nhận ra từ lâu, nhắc đi nhắc lại nhiều lần nhưng chậm được khắc phục. Không những vậy, trong những năm gần dây một số mặt có chiều hướng trầm trọng hơn, làm giảm niềm tin của dân chúng. Dư luận cho rằng một số loại hình văn hóa cụ thể như văn học nghệ thuật, môi trường văn hóa, các thiết chế văn hóa, xây dựng con người, phát triển giáo dục, đào tạo … có ít chuyển biến nhất là trong 10 năm qua.
Có ý kiến cho rằng sở dĩ văn hóa chưa ngang hàng với kinh tế, chính trị, xã hội như lời dạy của Bác Hồ là vì “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội của Việt Nam” trong các thời kỳ không có thuật ngữ “văn hóa”, nên văn hóa “có” cũng được, “không” cũng không sao (xem kỳ họp Quốc hội Khóa XV, lần thứ 2, trong phiên chất vấn Bộ trưởng Bộ Kế hoạch - Đầu tư). Đây là sự “bắt mạch” không chuẩn xác, vì thuật ngữ “kinh tế - xã hội” trong “Chiến lược phát triển kinh tế - xã hội…” đã hàm chứa các lĩnh vực kinh tế, xã hội, văn hóa, khoa học công nghệ, giáo dục đào tạo, môi trường, quốc phòng, an ninh đối ngoại”. Vậy nên cần truy suất từ các hướng khác để có thể tìm ra đúng nguyên nhân của nó. Xin mạo muội trao đổi một số ý kiến.
- Trước hết, là do chưa nhận thức đầy đủ về khái niệm “văn hóa”, hiểu chưa bao quát hết phạm vi rộng lớn, tính đa dạng và phong phú của văn hóa. Trong các văn bản chính thức mà Đảng và Nhà nước ta, từ “văn hóa” cũng nhiều nghĩa, lúc thì biểu thị nghĩa rộng nhất, lúc chỉ nói đến một thành tố, một dạng thức, một phần giá trị của văn hóa, lúc lại hiểu là những hoạt động văn hóa cụ thể hay chỉ một lĩnh vực quản lý nhà nước. Từ đó, chưa hiểu sâu sắc vai trò của văn hóa đối với phát triển. Hiện nay thường nói “văn hóa và phát triển”, ví dụ “phát triển kinh tế đồng thời với phát triển văn hóa” hoặc “khi phát triển kinh tế cũng phải phát triển có văn hóa”, nghĩa là vẫn tách biệt. Các nhận định chính thống cũng phản ánh sự tách biệt đó, ví như “chưa tương xứng giữa văn hóa với kinh tế, chính trị …”.
Trong lúc đó văn hóa nằm bên trong phát triển và văn hóa hàm chứa các nội dung mang tính chính trị, kinh tế. Ví như Nghị quyết TW5, khóa 8, nội hàm văn hóa gồm cả tư tưởng, đạo đức, khoa học, công nghệ và các loại hình văn học nghệ thuật, thiết chế, môi trường văn hóa … Văn hóa không đứng ngoài dù có đứng bên cạnh phát triển, nó nằm bên trong sự phát triển, là yếu tố nội sinh, là động lực và mục tiêu của sự phát triển. Phát triển đúng là phát triển luôn vì lợi ích con người, mà con người là chủ nhân văn hóa, nên vai trò chủ đạo là tính tất yếu vốn có của văn hóa. Một chính sách phát triển đúng đắn phải là chính sách làm cho các yếu tố cấu thành văn hóa thấm sâu vào quá trình sáng tạo của con người trên các lĩnh vực đời sống xã hội. Văn hóa giữ vai trò định hướng, làm kim chỉ nam “soi đường”, đồng thời làm nền cho việc xác định các mô hình phát triển, điều tiết và quản lý quá trình phát triển. Mọi chủ trương, mô hình phát triển, kể cả những dự án phát triển cụ thể, nếu hàm lượng giá trị văn hóa cao thì càng có khả năng đạt hiệu quả cao, bảo đảm phát triển bền vững. Bởi vậy, phải kiến tạo được mô hình phát triển, trong đó “kinh tế” và “ phi kinh tế” như là chính trị, xã hội, văn hóa, sinh thái hòa vào nhau thành một tổng thể, kết thành một dòng chảy hướng về một mục tiêu chung.
- Do tác động của các yếu tố khách quan và chủ quan trong cơ chế của kinh tế thị trường, các thành tố quan trọng của văn hóa Việt Nam đều có sự sa sút so với trước đây.
Đạo đức vừa là gốc vừa là biểu hiện quan trọng nhất của văn hóa, của nhân cách con người. Trong chương trình nghiên cứu lý luận của Hội đồng Lý luận Trung ương mang mã số KX.04 đã tiến hành trong các nhiệm kỳ liên tiếp từ 2006 đến nay đều có đề tài nghiên cứu về hệ giá trị văn hóa và hệ giá trị con ngời Việt Nam, nhưng vẫn chưa được định chuẩn chính thức. Trong lúc đó thì “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…, sa vào chủ nghĩa cá nhân ích kỷ, cơ hội, thực dụng, chạy theo danh lợi tiền tài, làm giảm sút lòng tin của nhân dân (Văn kiện Hội nghị lần thứ tư BCHTƯ khóa XI. Nhà Xuất bản Chính trị Quốc gia 2012. 21-22).
- Giáo dục và đào tạo theo Nghị quyết Trung ương 5 Khóa VIII, là một nội dung, nhiệm vụ quan trọng của sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc. Giáo dục – Đào tạo không những mang lại tri thức cho con người, nâng cao dân trí, đào tạo nhân lực, bồi dưỡng nhân tài mà còn “dạy làm người” tức đào tạo chủ nhân văn hóa. Vậy mà giáo dục – đào tạo ở nước ta còn muôn ngàn khó khăn, hạn chế và yếu kém mà ai cũng có thể đánh giá, nhận xét được. Điều làm cho mọi người thực sự băn khoăn, lo lắng là tại sao giáo dục – đào tạo được coi là “quốc sách hàng đầu” mà chất lượng đào tạo ngày càng sa sút. Kiến thức thì chưa tiên tiến, đào tạo nhân cách chưa coi trọng. Việc giáo dục tư tưởng, đạo đức, lối sống, truyền thống văn hóa, lịch sử dân tộc đã được cảnh báo bao lần trên phương tiện thông tin đại chúng, cả trong nhiều văn bản nhà nước, nhưng rồi vẫn không được chú ý về nội dung và phương pháp, chưa xây dựng được chuẩn mực văn hóa, hình mẫu văn hóa trong giáo dục và đào tạo thế hệ trẻ.
- Văn học – nghệ thuật là bộ phận quan trọng của văn hóa, có chức năng nhận thức, giáo dục thẩm mỹ, giải trí, giao tiếp, tổ chức và điều chỉnh xã hội, tác động đến tâm hồn, tình cảm của con người, góp phần hình thành phẩm chất, phát triển nhân cách. Trong thời gian qua, số lượng tác phẩm văn học nghệ thuật không ít, song còn ít tác phẩm có giá trị cao, sâu sắc về tư tưởng và nghệ thuật. Khuynh hướng văn học nghệ thuật giải trí, sính ngoại, bắt chước, thậm chí nghiêng về khai thác mặt tiêu cực, “cái tôi” nhỏ mọn, hạ thấp chức năng giáo dục tư tưởng và thuần mỹ, ngày càng phổ biến. Có người cầm bút đã có tiếng tăm nay lại bỏ công sức khai thác những chuyện vặt vãnh trong cuộc sống thường ngày lấy đòi hỏi tầm thường của cá nhân mình làm nguồn cảm hứng cho sáng tạo. Một số văn nghệ sĩ đăng tải những tác phẩm bôi đen hiện thực cuộc sống, thậm chí lật lại vấn đề lịch sử với góc nhìn phiến diện, chủ quan, ác ý.
- Chủ trương chính sách của Đảng và Nhà nước luôn đề cập đến vấn đề xây dựng môi trường văn hóa lành mạnh, văn minh, tạo điều kiện để mọi người được hưởng thụ văn hóa và văn hóa thấm sâu trong từng người, từng gia đình, từng khu dân cư, từng công sở … Song, môi trường văn hóa có nhiều yếu tố thiếu lành mạnh, các phong trào mang nặng tính hình thức và không có gì mới tạo ra tâm lý “nhờn”, nhàm chán. Các tệ nạn xã hội, sự xâm lấn, thậm chí “xâm lăng văn hóa” của các luồng văn hóa ngoại lai khá mạnh. Môi trường học đường, đời sống gia đình, “tình làng nghĩa xóm” diễn biến theo chiều hướng ngày càng xuống cấp. Tình trạng bạo lực gia đình, bạo lực phụ nữ, trẻ em, giết người cướp của từ đô thị phồn hoa đến nông thôn hẻo lãnh trở thành ám ảnh, bất an của dân chúng.
Các thiết chế văn hóa và sự hưởng thụ văn hóa giữa các vùng miền, giữa các tầng lớp nhân dân, nhất là ở các khu chế xuất, khu công nghiệp còn quá chênh lệch.
Sự quản lý các loại hình hoạt động văn hóa như ca nhạc, vũ trường, karaoke dường như bị buông lỏng, nặng về kinh doanh, không quan tâm đúng mức về khía cạnh văn hóa.
- Báo chí - xuất bản bên cạnh sự phát triển nhanh toàn diện với những thành tựu rất đáng trân trọng cũng còn nhiều hạn chế, thiếu sót, gây tác động tiêu cực không nhỏ đối với sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc. Sản phẩm báo chí, xuất bản là sản phẩm văn hóa đặc biệt, trong đó tiêu chí đầu tiên là trung thực, chính xác bởi nó làm chức năng thông tin. Nhưng nhiều trường hợp thông tin về một số vấn đề vốn phức tạp, nhạy cảm chính trị lại không được xem xét, cân nhắc chỉn chu, toàn diện mà cố tình thể hiện theo định kiến riêng, thậm chí thông tin sai sự thật, dẫn dắt dư luận theo hướng lệch lạc, gây tác động xấu trong đời sống văn hóa tư tưởng. Thông tin không trung thực, thiếu chính xác, giật gân theo kiểu “báo lá cải” là không làm tròn chức năng của báo chí là thông tin, định hướng, giáo dục. Gần đây thông tin mạng ào ạt ra đời nhiều loại hình với nội dung hết sức đa dạng, phức tạp, thậm chí phản động, phản văn hóa với ngôn ngữ xô bồ, lai căng, phản cảm nhưng dường như chưa có giải pháp quản lý hữu hiệu gây tác động tiêu cực khá lớn đối với sự nghiệp phát triển văn hóa quốc gia, dân tộc.
- Ở Việt Nam nói riêng và phương Đông nói chung “đạo làm gương” rất quan trọng, nhất là trong sự nghiệp xây dựng và phát triển văn hóa, nhân cách con người. Chính vì vậy, nhân dân ta vốn có kinh nghiệm “chọn mặt gửi vàng”, chọn cán bộ thường nghiêng về đức độ, vì “đức trị” là quan trọng hơn cả. Nhưng hiện nay, một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái như trên đã nói, nên thiếu “gương”, thiếu người để “gửi vàng” thì khủng hoảng, sa sút niềm tin là lẽ đương nhiên. Chịu trách nhiệm chính về sự sa sút văn hóa nêu trên là đội ngũ làm công tác văn hóa. Đảng ta nhận định “công tác quy hoạch, bồi dưỡng, bố trí, phát huy đội ngũ cán bộ văn hóa chưa đúng tầm. Một bộ phận cán bộ lãnh đạo, chỉ đạo quản lý, tham mưu cho văn hóa chưa đáp ứng yêu cầu của nhiệm vụ”. Có những “thủ lĩnh” các lĩnh vực văn hóa lại thiếu hiểu biết về chuyên môn, nghiệp vụ. Việc bố trí cán bộ không có chuyên môn, không hiểu biết về lĩnh vực làm công tác quản lý văn hóa dẫn đến công tác chỉ đạo, tổ chức thực hiện còn nhiều hạn chế, yếu kém. Chưa có một nhà văn hóa thực thụ làm “thủ lãnh” đích thực của ngành văn hóa. “Mọi thành bại trong công việc đều do cán bộ tốt hay kém”. Đó là gốc của mọi vấn đề đã được nêu ra trên đây.
3. Từ những điều trình bày trên đây, xin nêu một số điểm để góp phần tìm kiếm những định hướng và giải pháp chủ yếu tiếp tục xây dựng và phát triển nền văn hóa Việt Nam tiên tiến đậm đà bản sắc dân tộc.
- Nhận thức đầy đủ, toàn diện, bao quát hơn về bản chất, phạm vi, vai trò vị trí, tính chất của văn hóa và văn hóa Việt Nam. Vai trò “soi đường” của văn hóa đối với sự phát triển nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa thể hiện ở tầm hoạch định chiến lược phát triển kinh tế - xã hội dựa trên nguồn lực văn hóa mà hạt nhân là nguồn lực con người bao hàm cả thể lực, trí lực, đạo đức con người Việt Nam. Vấn đề xây dựng văn hóa trong điều kiện hội nhập quốc tế không chỉ là một mảng hoạt động đối ngoại, là cầu nối tâm linh giữa các quốc gia, các dân tộc mà còn là sự giao lưu giữa trái tim con người, để tâm tư tình cảm con người hòa lẫn vào nhau mang tính nhân quần. Đồng thời cần nhận thức đầy đủ hơn, chuẩn mực hơn về hệ giá trị văn hóa, con người Việt Nam, dân tộc Việt Nam trong thời kỳ công nghiệp hóa, hiện đại hóa.
- Vấn đề quan trọng là “chuyển” những nhận thức cơ bản trên đây vào lý trí, tình cảm và trách nhiệm của cán bộ, đảng viên, công chức, toàn xã hội, coi văn hóa vừa “soi đường cho quốc dân đi” vừa làm nền cho việc xác định mô hình phát triển; điều hành, điều tiết quản lý quá trình phát triển. Làm sao để các dự án đầu tư phát triển cụ thể đến mô hình phát triển hàm chứa nhiều lượng giá trị văn hóa cao sẽ tạo nên khả năng đạt hiệu quả cao, bảo đảm phát triển bền vững.
- Thực hiện có hiệu quả khâu đột phá là xây dựng văn hóa chính trị - văn hóa lãnh đạo và quản lý, văn hóa trong Đảng, trong cơ quan nhà nước và các đoàn thể. Đảng ta là đội tiên phong của giai cấp công nhân, của nhân dân lao động và của cả dân tộc, cho nên xây dựng văn hóa trong Đảng là xây dựng văn hóa ở bộ phận tiêu biểu nhất, ưu tú nhất, là loại hình cao nhất trong các loại hình văn hóa, Đảng lãnh đạo hệ thống chính trị, lãnh đạo xã hội nên xây dựng văn hóa trong đảng sẽ tạo điều kiện bảo đảm cho văn hóa “soi đường cho quốc dân đi”. Mặt khác sẽ tạo ra nhiều gương sáng để nhân dân “chọn mặt gửi vàng”. Đảng vững, trong sạch thì dân tin. Được dân tin thì có tất cả!
Trong tình hình hiện nay, xây dựng văn hóa lãnh đạo, quản lý, cụ thể là xây dựng văn hóa trong Đảng và trong cơ quan Nhà nước cần hướng vào góp phần thúc đẩy quá trình đổi mới, tự chỉnh đốn Đảng, tăng cường tính tiên phong, nâng cao năng lực lãnh đạo và sức chiến đấu của Đảng, xây dựng Đảng thật sự trong sạch, vững mạnh về chính trị, tư tưởng, tổ chức, có bản lĩnh chính trị vững vàng, có tầm trí tuệ cao, có phẩm chất đạo đức trong sáng, luôn gắn bó máu thịt với nhân dân, luôn có tinh thần phụng sự Tổ quốc và phục vụ nhân dân như Chủ tịch Hồ Chí Minh đã dạy. Trước hết phải kiên quyết khắc phục cho được “tình trạng suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức lối sống trong một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên”, nhất là đảng viên giữ vai trò lãnh đạo. Phải tuân thủ lời dạy của Bắc Hồ, không ngừng củng cố niềm tin vào con đường Bác Hồ và nhân dân ta đã chọn.
Hạt nhân cơ bản của văn hóa trong Đảng, chính quyền là đạo đức, bởi đó vừa là gốc vừa là biểu hiện quan trọng nhất của văn hóa, của nhân cách con người. Do vậy, xây dựng đạo đức Hồ Chí Minh cho toàn Đảng, toàn hệ thống chính trị cần phải được thực hiện trước tiên, sẽ có tác động dẫn đường chỉ lối cho sự nghiệp xây dựng văn hóa, con người Việt Nam. Nhiều học giả trong và ngoài nước đã nhận định: Đường lối chính trị của Chủ tịch Hồ Chí Minh thấm đượm tinh thần văn hóa mà hạt nhân là đạo đức cách mạng. Từ tác phẩm “Đường Kách Mệnh” (1927) đến “Sửa đổi lối làm việc” (1947), rồi Di chúc của Người, Bác Hồ đều nói nhiều về đạo đức, xây dựng văn hóa trong Đảng, để Đảng ta thực sự là Đảng Việt Nam, là con nòi của giai cấp, của dân tộc, đảng viên là người đầy tớ của nhân dân. Vậy mà sao lại có tình trạng như hiện nay “một bộ phận không nhỏ cán bộ, đảng viên suy thoái về tư tưởng chính trị, đạo đức, lối sống…”. Phải chăng lòng dạ không trong sáng nữa, đã sa vào “chủ nghĩa cá nhân” như Bác Hồ đã nói. Do vậy phải có quyết tâm chính trị cao mới bài trừ dần tình trạng đó, từ đó mới vực văn hóa lên được.
- Văn hóa là sản phẩm hoạt động có định hướng của con người. Cho nên xây dựng văn hóa trong Đảng, trong cơ quan Nhà nước phải xây dựng con người mà trước hết là cán bộ, cái gốc của mọi vấn đề. Phải giáo dục, nâng cao đạo đức cách mạng, đề cao danh dự của người cán bộ, coi “chạy chức”, “mua quan bán chức”, mua bằng cấp, dối trá, thu vén cá nhân, cục bộ… là sự suy thoái trầm trọng, là cơ hội, bất tài, vô liêm sỉ. Phải làm cho mọi người biết xấu hổ, nhục nhã, không còn danh dự khi mang tiền đi xin chức vụ, xin cơ cấu, xin bằng cấp, huân chương, ngửa tay đón nhận những cái không phải do mình làm ra. Người trọng danh dự không ai đi ăn xin!
Văn hóa Việt Nam là thành quả của hàng ngàn năm dựng nước, giữ nước kiên cường, bất khuất, đầy gian khổ, hy sinh. Đó là sự nghiệp vẻ vang của dân tộc Việt Nam. “Dân tộc ta, nhân dân ta, non sông đất nước ta đã sinh ra Hồ Chủ tịch, người anh hùng dân tộc vĩ đại và chính Người đã làm rạng rỡ dân tộc ta và non sông đất nước ta”. Rõ ràng, Hồ Chí Minh là tượng trưng cho tinh hoa của dân tộc Việt Nam, cho ý chí kiên cường, bất khuất của nhân dân Việt Nam hàng ngàn năm lịch sử, nên có thể suy nghĩ “Văn hóa Hồ Chí Minh” vừa là kết tinh của văn hóa Việt Nam, vừa làm rạng rỡ hơn, sâu sắc hơn văn hóa dân tộc ta. Văn hóa Hồ Chí Minh có nội hàm phong phú, từ triết lý đến những nội dung cụ thể, được thể hiện trên nhiều lĩnh vực qua những hình thức đa dạng, cả từ trong văn bản, tác phẩm của Người và quan trọng hơn là từ toàn bộ cuộc đời liên tục đấu tranh không mệt mỏi của người anh hùng dân tộc, một danh nhân văn hóa kiệt xuất. Triết lý tư tưởng và thực tiễn cuộc đời của Bác Hồ về chủ nghĩa yêu nước, chủ nghĩa nhân đạo, nhân văn, lòng khoan dung, vị tha, nhân hậu, phép ứng xử, ý chí kiên cường, liêm chính, chí công vô tư, nếp sống giản dị, đức khiêm tốn, cầu thị … là những nội hàm cơ bản của văn hóa Hồ Chí Minh. Thiết nghĩ, nghiên cứu, thẩm thấu và thực hành thật sự văn hóa Hồ Chí Minh có ý nghĩa then chốt đối với việc gìn giữ, phát huy, sáng tạo hệ giá trị văn hóa và con người Việt Nam trong quá trình phát triển.