Kỷ niệm 60 năm chiến thắng phát xít (9-5-1945 – 9-5-2005)

Vai trò quyết định của Liên Xô

Trong hàng ngũ Hồng quân Liên Xô, có 40 chiến sĩ tình nguyện Việt Nam
Vai trò quyết định của Liên Xô

Tháng 5-2005 chúng ta kỷ niệm lần thứ 60 ngày các lực lượng yêu chuộng hòa bình và tự do trên toàn thế giới chiến thắng vẻ vang chủ nghĩa phát xít. Đây là sự kiện lịch sử huy hoàng của thế kỷ XX, là chiến công chung của toàn thể nhân loại yêu tự do, của tất cả các lực lượng hòa bình, dân chủ.

Mặc dù giờ đây nhìn lại cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai với những nguồn sử liệu phong phú hơn và tư duy sử học đổi mới hơn, nhưng nhận thức về vai trò của từng mặt trận và từng quốc gia lớn trong việc đánh bại phát xít Đức, Ý, Nhật vẫn chưa có sự thống nhất.

Đặc điểm chung của hàng loạt tác phẩm do các nhà sử học phương Tây viết về chiến tranh thế giới thứ hai là xuyên tạc vai trò thực tế và những đóng góp mang tính quyết định của Liên Xô trong việc đánh thắng phát xít Đức và các nước chư hầu. Họ tìm mọi cách thổi phồng tầm quan trọng của các hoạt động quân sự của các lực lượng vũ trang Mỹ và Anh.

Vai trò quyết định của Liên Xô ảnh 1

Thống chế kiêm Tham mưu trưởng quân đội Đức Wilhelm Keitel (ngồi giữa) tại bản doanh của lực lượng Hồng quân Liên Xô ở Berlin (Đức) đêm 8-5-1945 trước khi diễn ra Lễ ký chính thức văn bản về việc phát xít Đức đầu hàng Liên Xô và các nước Đồng minh.

Hàng nghìn cuốn sách, hàng trăm bộ phim tập trung nói về tình hình chiến sự ở mặt trận Bắc Phi, ở Thái Bình Dương, nơi quân đội các nước phương Tây lập nên những chiến công lẫy lừng “làm đảo lộn tình thế”, viết về “Ngày dài nhất” khi quân Đồng minh mở “mặt trận thứ hai”..., nhưng về mặt trận Xô - Đức, về những tổn thất vô cùng lớn lao và về lòng quả cảm, sự hy sinh vô bờ bến của Hồng quân và nhân dân Liên Xô thì họ rất ít đề cập đến hoặc viết rất sơ lược, sai sự thật.

Chiến tranh thế giới lần thứ hai nổ ra ngày 1-9-1939 khi phát xít Đức tấn công Ba Lan. Sau khi chiếm hầu hết châu Âu, rạng sáng ngày 22-6-l941 phát xít Đức bất ngờ tấn công Liên Xô. Cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô bắt đầu. Theo kế hoạch “Bacbarôt”, phát xít Đức hy vọng nhanh chóng đánh chiếm Liên Xô và “bắt thế giới đầu hàng”.

Ý thức được điều đó, Đảng Cộng sản, Chính phủ và nhân dân, Hồng quân Liên Xô sẵn sàng đương đầu với chủ nghĩa phát xít, không những vì nghĩa vụ thiêng liêng bảo vệ Tổ quốc mà còn vì sự sống còn của toàn nhân loại. Sự thật lịch sử đã chứng minh: quân đội và nhân dân Liên Xô là người đóng vai trò quyết định trong chiến thắng chủ nghĩa phát xít. Điều đó được thể hiện ở những điểm sau:

1) Hồng quân Liên Xô đã chịu đựng gánh nặng lớn nhất của chiến tranh và tiêu diệt đại bộ phận lực lượng phát xít trên mặt trận Xô - Đức

Trong chiến tranh thế giới thứ hai, chiến sự diễn ra trên nhiều mặt trận: mặt trận Tây Âu, mặt trận Bắc Phi, mặt trận Xô - Đức, mặt trận Thái Bình Dương... Nhìn chung, mặt trận nào cũng gay go, phức tạp và kèm theo những tổn thất vô cùng lớn lao. Tuy nhiên, nếu xét về trọng tâm chiến lược của quân đội phát xít, về cường độ chiến tranh và tác dụng quyết định của các chiến dịch đối với kết quả cuối cùng của toàn bộ cuộc chiến tranh thì mặt trận Xô - Đức được xếp ở vị trí đầu tiên.

Mặt trận Xô - Đức chính thức mở màn ngày 22-6-1941. Vào thời điểm đó tổng số quân của lực lượng vũ trang Đức là 8,5 triệu người và được biên chế thành 214 sư đoàn, trong đó 190 sư đoàn được phái sang mặt trận Xô – Đức (5,5 triệu quân). Tiềm lực quân sự của phát xít Đức cũng tăng lên nhanh chóng. Đến giữa năm 1941 Đức tập trung tại mặt trận phía Đông 10.000 máy bay và gần 6.000 xe tăng.

Chính tại mặt trận Xô - Đức, quân đội phát xít đã phải gánh chịu những tổn thất to lớn về người và vật chất: theo số liệu gần đây thì tổng số quân Đức bị chết, bị thương và bị bắt làm tù binh trong chiến tranh thế giới lần thứ hai lên tới gần 14 triệu người, trong đó riêng ở mặt trận Xô - Đức là 10 triệu người.

Một khối lượng khổng lồ vũ khí, quân trang, quân dụng bị phá hủy hoặc bị tịch thu: 48.000 xe tăng, 77.000 máy bay và hàng triệu vũ khí các loại. Thắng lợi của Liên Xô trên mặt trận Xô - Đức mang tính quyết định đến toàn bộ kết quả của chiến tranh, đánh gục hoàn toàn chủ nghĩa phát xít Đức, tiến tới kết thúc cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

2) Chiến thắng của quân đội Liên Xô làm thay đổi cục diện chiến tranh góp phần giành thắng lợi cho các lực lượng chống phát xít

Trong những trận giáp chiến liên tục kéo dài 5 tháng rưỡi vào mùa hè và thu năm 1941, Hồng quân Liên Xô đã làm thất bại kế hoạch “chiến tranh chớp nhoáng” của phát xít Đức và buộc chúng chuyển sang thế phòng thủ với những tổn thất lớn lao: gần 403.000 quân bị giết, bị thương và bị bắt làm tù binh.

Trận đánh ở cửa ngõ Mátxcơva mùa đông 1941 - 1942 là một trong những sự kiện lịch sử quan trọng của cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai. Ngày 30-9-1941 phát xít Đức huy động một lực lượng đông đảo gồm 1,8 triệu quân, 1.700 xe tăng, 14.000 đại bác và súng cối, gần 1.000 máy bay chiến đấu đánh vào Mátxcơva.

Mọi tầng lớp dân chúng Mátxcơva cùng nhất loạt đứng lên đánh trả quân xâm lược. Tổn thất của phát xít Đức lên tới gần 400.000 người. Chiến thắng ở Mátxcơva làm thay đổi cán cân lực lượng trong chiến tranh thế giới lần thứ hai theo hướng có lợi cho các lực lượng Đồng minh chống phát xít và làm cho uy tín của Liên Xô được tăng cao.

Từ giữa năm 1942 đến đầu 1943 những trận đánh ác liệt kéo dài 6 tháng ở Xtalingrát đã làm cho phát xít Đức trở nên khốn quẫn hơn. Hồng quân Liên Xô đã tiêu diệt 1/4 tổng số quân địch trên toàn bộ mặt trận Xô - Đức lúc đó: 22 sư đoàn tinh nhuệ bị xóa sổ, 1.700.000 tên địch bị tiêu diệt, 300.000 binh lính và sĩ quan  bị bắt làm tù binh. 24.000 khẩu đại bác, 3.500 xe tăng và 4.300 máy bay Đức bị tiêu diệt. Chiến dịch Xtalingrát đánh dấu bước ngoặt quan trọng, làm thay đổi cục diện cuộc chiến tranh Vệ quốc của nhân dân Liên Xô cũng như cuộc chiến tranh thế giới lần thứ hai.

Mùa hè năm 1943 diễn ra trận đánh lớn ở vòng cung Cuốcxcơ. Tại đây, hai bên tập trung tới 4 triệu quân, 69.000 đại bác và súng cối, 13.000 xe tăng, 11.000 máy bay. Sau 50 ngày đêm chiến đấu, quân đội Liên Xô đã đập tan cuộc tấn công chiến lược của địch, tiêu diệt nửa triệu quân, 3.000 máy bay, 1.500 xe tăng cùng nhiều vũ khí khác.

Sau chiến dịch Cuốcxcơ, quân đội Liên Xô chuyển sang phản công, giải phóng hoàn toàn đất nước Xô viết, tiến tới biên giới phía Tây. Mãi đến ngày 6-6-1944 khi quân đội phát xít Đức bị đánh đuổi hoàn toàn ra khỏi lãnh thổ Liên Xô và Hồng quân Liên Xô bắt đầu chiến dịch giải phóng lãnh thổ các nước Đông Âu, truy quét phát xít Đức đến tận sào huyệt của chúng thì liên quân Anh - Mỹ mới vội vàng mở “Mặt trận thứ hai” (chiến dịch Ôvéclô) do tướng Đ.Aixenhao chỉ huy, chia sẻ gánh nặng chiến tranh với Liên Xô. Đây là cuộc đổ bộ lớn nhất trong chiến tranh thế giới lần thứ hai, gồm khoảng 1,5 triệu người để chiến đấu với 560.000 quân phát xít Đức. Trong khi đó, tại mặt trận phía Đông, Liên Xô đã phải huy động tới 4,5 triệu người để chống lại 5,5 triệu quân phát xít Đức.

Cuộc đổ bộ vào Noócmăngđi và các cuộc tiến công sau đó của quân đội Anh - Mỹ vào Pháp và Bỉ cũng là chiến dịch có ý nghĩa lớn về chính trị và chiến lược. Nhưng không thể đánh giá quá cao vai trò của chiến dịch Ôvéclô và ảnh hưởng của nó đối với diễn biến sau này, cũng như đối với việc kết thúc của thế chiến thứ hai được. Điều kiện cần thiết chủ yếu cho thắng lợi của chiến dịch này là phát xít Đức đã mất khả năng chi viện cho chiến trường Tây Âu.

Chúng đã bị suy yếu vì những tổn thất nặng nề trong các trận đánh ở mặt trận phía Đông với quân đội Liên Xô. Chính Sớc-sin, một người chống cộng sản điên cuồng và hết sức thù ghét Liên Xô, cũng đã phải tuyên bố ở hạ nghị viện Anh ngày 28-9-1944 rằng: “Chính quân đội Nga đã rút ruột bộ máy chiến tranh của Đức và hiện nay đang kìm lại trên chiến trường của họ một bộ phận lực lượng địch rất lớn”.

Một số khác không phủ nhận thắng lợi của Liên Xô nhưng lại coi thắng lợi đó là kết quả của những sai lầm về kế hoạch tác chiến của Hítle, hoặc nhờ có viện trợ vũ khí, lương thực... của Anh, Mỹ cho Liên Xô. Thực ra số hàng viện trợ của Anh - Mỹ lúc đó là rất cần thiết và quí giá trong khi Liên Xô gặp muôn vàn khó khăn, thiếu thốn. Song số vũ khí viện trợ đó chỉ chiếm 4% lượng vũ khí do Liên Xô sản xuất, bao gồm: 9.600 khẩu đại bác (2%), 18.700 máy bay (12%), 10.800 xe tăng (l0,4%), 400.000 ô tô, một số đầu máy xe lửa, nhiên liệu, khí tài thông tin, thuốc men, lương thực...

Số viện trợ này rất ít ỏi so với sự đóng góp của Liên Xô nhằm giảm bớt sự hy sinh, mất mát của các nước Đồng minh trong chiến tranh và điều quan trọng là Hồng quân đã chặn đứng quân đội phát xít Đức và bắt đầu tổng phản công từ cuối năm 1941, trước khi Liên Xô nhận được những chuyến hàng viện trợ từ Mỹ, Canada và Anh vào giai đoạn 1943-l945, khi nền công nghiệp của Liên Xô đã sản xuất được nhiều hơn của Đức.

Việc đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức là bằng chứng không thể chối cãi được về sự bất lực của những kẻ xuyên tạc lịch sử. Không thể phủ nhận một sự thật là Quân đội Liên Xô đã giữ vai trò chủ lực, là lực lượng quyết định đánh bại chủ nghĩa phát xít Đức ở châu Âu.

TS NGUYỄN HỒNG VÂN - Viện Sử học
(Trích tham luận tại Hội thảo khoa học “60 năm chiến thắng phát xít” do Viện KHXH Việt Nam tổ chức)

Trong hàng ngũ Hồng quân Liên Xô, có 40 chiến sĩ tình nguyện Việt Nam

Trong tâm khảm của những người Xô viết vẫn còn đọng mãi tinh thần bất khuất và lòng dũng cảm của nhóm 40 chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã chiến đấu và hy sinh anh dũng tại ngoại ô Mátxcơva trong hàng ngũ Hồng quân Liên Xô.

Theo quyết định của Đảng Cộng sản Liên Xô và Quốc tế Cộng sản, ngày 14-8-1941 trên sân vận động Đinamô (Mátxcơva) đã thành lập Trung đoàn Quốc tế do Đại tá I.X. Vinarốp làm Chính ủy.

Các chiến sĩ Việt Nam – những người đang theo học tại Mátxcơva và công tác tại Quốc tế Cộng sản - đã tập hợp trong một đội quân đặc biệt của Trung đoàn quốc tế cùng với khoảng 2.000 người nước ngoài khác (Đức, Áo, Tây Ban Nha, Mỹ, Trung Quốc, Ba Lan, Tiệp, Bungari, Rumani) kề vai sát cánh với nhân dân Liên Xô chiến đấu chống lại quân phát xít xâm lược.

Ngày 7-11-1941 Trung đoàn Quốc tế đã tham gia cuộc duyệt binh lịch sử trên Quảng trường Đỏ và từ đó tiến thẳng ra mặt trận. Sau nhiều năm tìm kiếm, người ta mới chỉ đưa ra được tên tuổi của 5 chiến sĩ Việt Nam, đó là:

1. Lý Nam Thanh (tức Nguyễn Sinh Thản), sinh năm 1908 tại làng Sen, Kim Liên, Nghệ An.

2. Lý Thúc Chắt (tức Vương Thúc Thoại), sinh năm 1911 tại Kim Liên, Nghệ An.

3. Lý Anh Tạo (tức Hoàng Tơ), sinh năm 1912 tại Hoàng Trù, Kim Liên, Nghệ An.

4. Vương Thúc Tình, sinh tại Kim Liên, Nghệ An.

5. Lý Phú San, sinh năm 1900 tại Phú Lâm, Thanh Oai, Hà Đông.
Người ta cho rằng đa số các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã hy sinh trong các trận đánh ở ngoại ô Mátxcơva trong khoảng tháng 10-1941 đến tháng l-l942. Riêng ông Lý Phú San còn sống, trở về Việt Nam và đã qua đời năm 1980.

Sự hy sinh quên mình và chủ nghĩa anh hùng cách mạng của các chiến sĩ tình nguyện Việt Nam đã góp phần tạo nên chiến thắng ngày 9-5-1945. Họ đã được trao tặng những phần thưởng cao quý của Chính phủ Liên Xô: ngày 12-12-1986, Đoàn Chủ tịch Xô viết tối cao Liên Xô đã ra Quyết định tặng Huân chương Chiến tranh bảo vệ Tổ quốc hạng nhất cho năm chiến sĩ quốc tế người Việt Nam cùng Kỷ niệm chương 40 năm chiến thắng phát xít và Huy hiệu Cựu chiến binh Liên Xô (*).

(*) Xem thêm: A-A Xôcôlốp, Quốc tế Cộng sản và Việt Nam. Nxb Chính trị Quốc gia, HN 1999.

Tin cùng chuyên mục