Theo văn bản nêu trên, trên cơ sở chức năng nhiệm vụ, thẩm quyền của mình, UBKT phải chủ động thực hiện công tác phòng chống tham nhũng. Khi phát hiện đảng viên có hành vi tham nhũng phải kiểm tra, xem xét và xử lý nghiêm minh, chính xác, kịp thời.
“Đảng viên ở bất cứ cương vị công tác nào, có dấu hiệu tham nhũng đều phải được xem xét làm rõ và xử lý nghiêm theo quy định của Đảng và pháp luật Nhà nước, không có vùng cấm” – quy định nêu rõ.
Đồng thời khẳng định, tổ chức đảng, đảng viên có hành vi dung túng, bao che, tham nhũng hoặc cản trở, can thiệp trái quy định vào việc xử lý các vụ việc tham nhũng.
UBKT cũng có trách nhiệm tiếp nhận và xử lý đơn, thư phản ánh, tố cáo về tham nhũng theo thẩm quyền phục vụ cho việc phát hiện tham nhũng. Trường hợp không thuộc trách nhiệm, thẩm quyền giải quyết thì phải chuyển cho UBKT cấp có thẩm quyền xem xét, giải quyết theo quy định. Cùng với đó, phải thu thập thông tin có liên quan đến tham nhũng từ các tổ chức đảng, cơ quan, đơn vị quản lý cán bộ, đảng viên và thông qua tự phê bình, phê bình trong tổ chức đảng…
Khi có dấu hiệu vi phạm và giải quyết tố cáo về tham nhũng, UBKT có quyền yêu cầu đảng viên không được xuất cảnh. Khi cần thiết đề nghị các cơ quan có thẩm quyền tạm hoãn xuất cảnh theo quy định của pháp luật đối với đảng viên có dấu hiệu tham nhũng và có biểu hiện bỏ trốn.
Liên quan đến việc xử lý hành vi tham nhũng, quy định cho phép UBKT xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp ủy, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, xử lý tổ chức đảng và đảng viên vi phạm. Yêu cầu cơ quan, tổ chức có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật về hành chính, bố trí lại công tác đối với đảng viên có hành vi tham nhũng chưa đến mức xử lý hình sự; xử lý kỷ luật hoặc đề nghị cấp uỷ, tổ chức đảng có thẩm quyền xem xét, xử lý kỷ luật tổ chức đảng và đảng viên vi phạm theo quy định.