Việt Nam có hơn 26.000 ca mắc mới ung thư phổi mỗi năm
Theo công bố mới đây trên Tạp chí Ung thư lồng ngực - Journal of Thoracic Oncology, việc thay đổi hình thức chẩn đoán và điều trị bệnh ung thư phổi không tế bào nhỏ tại Việt Nam và châu Á là rất cấp thiết để đáp ứng tốt hơn đặc điểm của bệnh nhân trong khu vực.
Cụ thể, bệnh nhân châu Á chiếm khoảng 60% tổng số ca ung thư phổi trên toàn thế giới, trong đó riêng Việt Nam có hơn 26,200 trường hợp được chẩn đoán mắc mới mỗi năm và gần 23,800 ca tử vong vào năm 2020.
Ung thư phổi là căn bệnh ung thư phổ biến và gây tử vong cao thứ hai tại nước ta, tuy vậy các hình thức chẩn đoán và phác đồ điều trị ung thư trong nước và khu vực đang được thực hiện theo hình mẫu của Mỹ và Châu Âu, nơi đặc điểm bệnh nhân và bệnh lý có những điểm khác biệt.
Điển hình, tỷ lệ đột biến gen EGFR (thụ thể yếu tố tăng trưởng biểu bì) ở bệnh nhân châu Á cao hơn hẳn so với các khu vực còn lại. Đột biến này được tìm thấy ở hơn 50% bệnh nhân ung thư phổi được chẩn đoán mắc ung thư phổi không tế bào nhỏ.
Việc xác định đột biến gen EGFR của các bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ có thể giúp bác sĩ xác định các phương pháp điều trị phù hợp, vì vậy xét nghiệm EGFR có thể được xem như một "dấu ấn sinh học" lý tưởng để chỉ dẫn cho phác đồ điều trị.
Tuy nhiên, khoảng hai phần ba số chuyên viên y tế ở châu Á được khảo sát cho biết chỉ chưa đến một nửa số bệnh nhân ung thư phổi của họ được thực hiện xét nghiệm này.
Dù hút thuốc lá được xem là yếu tố nguy cơ hàng đầu gây ung thư phổi, nhiều bệnh nhân tại châu Á mắc ung thư phổi ở độ tuổi trẻ hơn lại chưa bao giờ hút thuốc, đặc biệt là phụ nữ tại châu Á khi so sánh với các khu vực khác trên thế giới. Bệnh nhân mắc ung thư phổi mà không hút thuốc lá sẽ có xu hướng xuất hiện đột biến gen EGFR cao hơn.
Giáo sư Tetsuya Mitsudomi, Trung tâm Liên minh Nghiên cứu Toàn cầu và Phẫu thuật Lồng ngực, Bệnh viện Kindai, Nhật Bản, cho biết: “Xét nghiệm dấu ấn sinh học định kỳ cho tất cả bệnh nhân ung thư phổi không tế bào nhỏ ở châu Á có thể giúp cải thiện kết quả chẩn đoán, giảm thiểu các quy trình không cần thiết và đảm bảo lựa chọn phác đồ điều trị có lợi nhất cho từng bệnh nhân, từ đó mang lại kết quả tốt nhất cho họ”.
TS-BS Đặng Huy Quốc Thịnh, Phó Giám đốc Bệnh Viện Ung bướu TPHCM, cho biết, theo ước tính, tại Việt Nam chỉ có khoảng 15% bệnh nhân mắc ung thư phổi còn sống sót sau 5 năm.
Hiện nay, tỷ lệ tử vong do ung thư phổi đã có chiều hướng giảm nhẹ tại các nước phương Tây nhưng vẫn tiếp tục tăng ở châu Á trong suốt 2 thập kỷ qua. Các chuyên gia tin rằng có nhiều nguyên nhân dẫn đến tỷ lệ tử vong cao do ung thư ở những quốc gia châu Á có thu nhập thấp và trung bình, trong đó bao gồm việc bệnh nhân chưa được tiếp cận những phương pháp điều trị phù hợp cho mình.