Ngày 29-11, TAND cấp cao tại TPHCM đã tuyên án đối với bị cáo Phạm Văn Cung (sinh năm 1982, ngụ huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long, pháp danh Thích Phước Ngọc, từng là trụ trì chùa Phước Quang) và bị cáo Nguyễn Tuấn Sĩ (sinh năm 1968, ngụ TP Vĩnh Long) về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
HĐXX cho rằng, bị cáo Sĩ kháng cáo xin giảm nhẹ hình phạt nhưng không cung cấp được tình tiết mới để xem xét vì thế HĐXX không có căn cứ chấp nhận.
Còn với kháng cáo của bị hại là bà H.T.Y. (sinh năm 1965, ngụ tỉnh Hưng Yên) và kháng nghị của Viện KSND cấp cao tại TPHCM đề nghị hủy án, điều tra xét xử lại, đưa 261 người đã nhận tiền của bị cáo Cung vào tham gia với tư cách người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan, HĐXX nhận định Cung chuyển tiền để trả những khoản nợ trước đó và nhờ người trả nợ thay những khoản vay mượn, thanh toán dịch vụ pháp lý, tiền mua vật tư sửa chùa...
HĐXX cho rằng, việc chuyển tiền của bị cáo cho 261 người trên là giao dịch dân sự, những người nhận tiền từ Cung không biết số tiền Cung chuyển do phạm tội mà có nên không có căn cứ để thu hồi trả cho bị hại. Bên cạnh đó, việc các luật sư của bị hại cho rằng có dấu hiệu bỏ lọt tội phạm, HĐXX cho rằng các tài liệu, hồ sơ có trong vụ án không đủ căn cứ để xem xét.
Từ đó, HĐXX bác toàn bộ kháng cáo của bị cáo Sĩ, bị hại Y. và kháng nghị của Viện KSND, tuyên y án chung thân đối với Phạm Văn Cung; 3 năm tù đối với Nguyễn Tuấn Sĩ cùng về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”.
Theo bản án sơ thẩm, Cung là tu sĩ tại chùa Phước Quang (thị trấn Tam Bình, huyện Tam Bình, tỉnh Vĩnh Long) từ năm 2005 với pháp danh là Thích Phước Ngọc.
Tháng 9-2008, Cung được bổ nhiệm làm trụ trì chùa Phước Quang. Sau đó, Trung tâm Cô nhi viện “Suối nguồn tình thương” nuôi dạy trẻ mồ côi được thành lập do Cung làm giám đốc.
Năm 2015, Cung quen với bà N.T.H.P. (sinh năm 1970, ngụ quận 7, TPHCM), rồi mời bà P. đến tham quan chùa. Cung dùng thủ đoạn như xây chùa, xây trung tâm cô nhi viện, bị thiếu nợ, bị bắt cóc đưa sang Trung Quốc không cho về nước và lừa bà P. hơn 18,5 tỷ đồng. Khi bị phát giác, Cung hoàn trả một phần và chiếm đoạt của nạn nhân hơn 11,6 tỷ đồng.
Năm 2017, Cung chủ động làm quen với bà B.T.N. (sinh năm 1970, ngụ quận Hai Bà Trưng, TP Hà Nội), rồi mời bà đến thăm chùa và cô nhi viện. Khi tạo được lòng tin, Cung lừa bà N. chuyển tiền cho Cung hơn 26 tỷ đồng.
Năm 2018, khi đi tham quan tại Liên bang Nga, Cung làm quen với bà H.T.Y.. Sau đó, Cung lừa chiếm đoạt tiền của bà Y. hơn 17 tỷ đồng. Ngoài ra, Cung còn lừa một phụ nữ ở TPHCM với số tiền hơn 13 tỷ đồng.
Cơ quan công an xác định, Cung cấu kết với các đồng phạm, dùng nhiều thủ đoạn tinh vi, lừa đảo nhiều bị hại với tổng số tiền gần 68 tỷ đồng.
Ngày 14-4, TAND tỉnh Vĩnh Long tuyên phạt bị cáo Phạm Văn Cung tù chung thân về tội “Lừa đảo chiếm đoạt tài sản”. Bị cáo Nguyễn Tuấn Sĩ (sinh năm 1968, ngụ TP Vĩnh Long) 3 năm tù cùng tội danh trên.
Sau đó, Viện KSND cấp cao tại TPHCM ban hành kháng nghị toàn bộ bản án sơ thẩm của TAND tỉnh Vĩnh Long và đề nghị TAND cấp cao tại TPHCM xét xử phúc thẩm theo hướng hủy án sơ thẩm để điều tra lại với bị cáo Cung.
Theo kháng nghị, bản án sơ thẩm không tuyên buộc những người nhận số tiền có được do phạm tội mà có để thu hồi, hoàn trả lại cho bị hại là không đúng quy định
Ngoài ra, bản án sơ thẩm không đưa 261 người liên quan tham gia tố tụng với tư cách là người có quyền lợi, nghĩa vụ liên quan là vi phạm nghiêm trọng thủ tục tố tụng. Điều này cũng làm ảnh hưởng trực tiếp đến việc quyết định hình phạt đối với bị cáo cũng như trách nhiệm khắc phục hậu quả do hành vi phạm tội gây ra.