Diện mạo mới của hạ tầng giao thông
Cho đến thời điểm này, tuyến ĐSTĐC trên trục Bắc - Nam đã lộ rõ hình hài, với tổng mức đầu tư lớn nhất từ trước đến nay đối với một dự án giao thông, hơn 67 tỷ USD. Theo Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy, có 2 điểm nhấn quan trọng, đó là việc lựa chọn tốc độ 350km/giờ và phương án đầu tư toàn tuyến hoàn thành vào năm 2035 thay vì đầu tư phân kỳ. Còn theo ông Vũ Hồng Phương, Giám đốc Ban Quản lý dự án đường sắt (Bộ GTVT), đây sẽ là giai đoạn “lột xác” của ngành đường sắt sau gần 100 năm trì trệ. Nếu tính cả việc nâng cấp tuyến đường sắt Thống Nhất, xây mới tuyến đường sắt TPHCM - Cần Thơ, nâng cấp và xây 3 tuyến đường sắt kết nối với Trung Quốc, xây dựng 580km đường sắt đô thị tại Hà Nội - TPHCM, trong giai đoạn 2025-2035, tổng vốn đầu tư cho đường sắt lên tới gần 150 tỷ USD, mức đầu tư lớn chưa từng có.
Cùng với ngành đường sắt, đường bộ cũng đang tiếp tục hoàn chỉnh mạng lưới với 2.000km đã hoàn thành, 1.700km đang thi công, 1.400km chuẩn bị khởi công. Chưa bao giờ, công trường xây dựng các tuyến cao tốc lại nhộn nhịp như hiện nay. Những ngày này, khi cả nước tưng bừng đón xuân mới thì không khí “3 ca, 4 kíp”, “vượt nắng, thắng mưa” rất hối hả trên công trường của 27 dự án từ Bắc đến Nam. Tất cả đang dồn sức cho đợt thi đua cao điểm “500 ngày đêm thi đua hoàn thành 3.000km đường bộ cao tốc” và hướng tới mục tiêu hoàn thành 5.000km đường cao tốc vào năm 2030.
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, theo kế hoạch, đến cuối năm 2025, cả nước sẽ có 1.172km đường cao tốc mới. Đáng chú ý, Thủ tướng đã đồng ý triển khai nhanh dự án mở rộng nâng cấp đường cao tốc TPHCM - Long Thành lên 10 làn xe. Tổng Công ty Đầu tư phát triển đường cao tốc Việt Nam đã cam kết nếu được tạo điều kiện sẽ hoàn thành dự án kịp khai thác đồng bộ với sân bay Long Thành.
Diện mạo ngành hàng không cũng có bước phát triển đột phá với điểm nhấn quan trọng là dự án sân bay Long Thành, sẽ đạt 100 triệu hành khách ở giai đoạn hoàn chỉnh đầu tư sau năm 2030, trở thành một trong những trung tâm trung chuyển hàng không quốc tế của khu vực. Tương tự, lĩnh vực hàng hải và đường thủy cũng đang thay đổi ngoạn mục với hàng loạt dự án lớn. Trong đó, lĩnh vực đường thủy cần đầu tư 155.000 tỷ đồng, hàng hải cần 323.000 tỷ đồng để thực hiện các dự án theo quy hoạch từ nay đến năm 2030.
Dự án tuyến ĐSTĐC Bắc - Nam đã được tính toán kỹ các phương án kết nối tận dụng tối đa lợi thế của từng phương thức vận tải. Trong đó, tại phía Bắc, tuyến ĐSTĐC được kết nối với tuyến đường bộ cao tốc Bắc - Nam, các tuyến đường sắt quốc gia và liên vận quốc tế như tuyến Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng, Hà Nội - Lạng Sơn; kết nối tuyến đường sắt đô thị số 1 và số 6 để vào trung tâm Hà Nội và Cảng hàng không quốc tế Nội Bài; kết nối với cảng biển Hải Phòng…
Ở khu vực miền Trung, ĐSTĐC cũng kết nối với đường bộ cao tốc Bắc - Nam, tuyến đường sắt liên vận quốc tế Mụ Giạ - Vũng Áng - Viêng Chăn, sân bay Chu Lai, các cảng biển: Vũng Áng, Kỳ Hà, Vân Phong và tương lai sẽ kết nối với tuyến đường sắt qua Tây Nguyên. Ở phía Nam, ĐSTĐC sẽ kết nối với mạng lưới đường sắt khu vực đầu mối TPHCM, cảng biển Cái Mép - Thị Vải thông qua các tuyến: đường sắt Biên Hòa - Vũng Tàu, TPHCM - Lộc Ninh, TPHCM - Cần Thơ; kết nối với trung tâm TPHCM, sân bay Tân Sơn Nhất thông qua các tuyến đường sắt đô thị; kết nối trực tiếp với cảng hàng không quốc tế Long Thành…
Như vậy, diện mạo giao thông mới với “trục xương sống” là ĐSTĐC Bắc - Nam sẽ tạo động lực mạnh mẽ thúc đẩy kinh tế tăng trưởng, kết nối các vùng miền, khai thác tối đa tiềm năng và lợi thế quốc gia. Không chỉ là nền tảng cho sự phát triển bền vững, kéo giảm chi phí logistics, thu hút đầu tư nước ngoài còn mang tới niềm tin về một Kỷ nguyên mới phồn vinh và thịnh vượng.
Nâng cao năng lực nội sinh
Dự án ĐSTĐC Bắc - Nam đang được kỳ vọng sẽ là đòn bẩy quan trọng trong lộ trình hiện thực hóa mục tiêu trở thành quốc gia phát triển, có thu nhập cao. Với quy mô lớn nhất từ trước tới nay, dự án sẽ tạo ra thị trường xây dựng và thiết bị đường sắt ước tính đạt 75,6 tỷ USD, cùng hàng triệu việc làm... Nhu cầu phục vụ dự án đang đặt ra những thách thức cũng như cơ hội lớn chưa từng có cho các doanh nghiệp Việt Nam.
Theo ông Nguyễn Ngọc Đông, nguyên Thứ trưởng Bộ GTVT, với trình độ hiện tại, Việt Nam có thể tự chủ hoàn toàn trong công nghiệp xây dựng liên quan đến dự án. Nếu được chuyển giao công nghệ, các doanh nghiệp Việt Nam có khả năng nội địa hóa và làm chủ các lĩnh vực như chế tạo toa xe, hệ thống cấp điện động lực, thông tin - tín hiệu, vận hành, duy tu, bảo trì, và sản xuất linh kiện thay thế. Tuy nhiên, theo kinh nghiệm quốc tế, để phát triển công nghiệp đường sắt, Việt Nam phải làm chủ công nghệ lõi, có nền công nghiệp phụ trợ phát triển.
Ông Uông Việt Dũng, Người phát ngôn Bộ GTVT, cho biết, để chuẩn bị cho vấn đề này, Bộ GTVT đã làm việc với một số doanh nghiệp trong nước như Tổng cục Công nghiệp - Bộ Quốc phòng, Tập đoàn Hòa Phát, Tập đoàn Thành Công... để định hướng các doanh nghiệp có chiến lược và chủ động chuẩn bị nguồn lực tham gia quá trình phát triển công nghiệp đường sắt. Thủ tướng cũng đã làm việc với các doanh nghiệp tham gia đầu tư xây dựng cơ sở hạ tầng để có các chiến lược sớm tiếp cận đào tạo nguồn nhân lực, tham gia đầu tư xây dựng đường sắt.
Nhiều doanh nghiệp lớn trong nước cũng đã bày tỏ trách nhiệm với vận mệnh quốc gia và sẵn sàng vào cuộc triển khai dự án đặc biệt này. Chủ tịch HĐQT Tập đoàn Hòa Phát Trần Đình Long tự tin cam kết đảm bảo cung cấp đủ khối lượng 6 triệu tấn thép các loại phục vụ dự án, đặc biệt là thép đường ray cao tốc và thép dự ứng lực cường độ cao, đảm bảo tiêu chuẩn chất lượng quốc tế.
Ông Nguyễn Quốc Hiệp, Chủ tịch Hiệp hội Nhà thầu Việt Nam, khẳng định, nếu có sự chuẩn bị tốt, được chuyển giao công nghệ, các nhà thầu Việt Nam hoàn toàn có thể đảm đương được trọng trách từ xây dựng đến vận hành, khai thác, duy tu, bảo dưỡng dự án ĐSTĐC. Các doanh nghiệp rất cần cơ chế được giao nhiệm vụ hoặc đặt hàng cung cấp sản phẩm công nghiệp đường sắt, công nghiệp hỗ trợ. Chủ đầu tư phải quy định điều khoản cụ thể về lộ trình, nội dung chuyển giao công nghệ đối với tổng thầu, nhà thầu; tổng thầu, nhà thầu phải có cam kết chuyển giao công nghệ vận hành, bảo trì, sửa chữa…
Từ quá trình triển khai dự án ĐSTĐC, các doanh nghiệp Việt sẽ từng bước phát triển và làm chủ các ngành công nghiệp nền tảng. Chính nguồn năng lực nội sinh này sẽ đưa Việt Nam tiến gần hơn đến mục tiêu trở thành quốc gia công nghiệp hiện đại vào năm 2045.
Thứ trưởng Bộ GTVT Nguyễn Danh Huy cho biết, hiện cơ cấu vận tải chưa hợp lý khi vận tải đường biển, đường sông đảm nhận phần lớn nhu cầu vận tải hàng hóa khoảng 75,3%, đường bộ 23,4%, đường sắt chỉ chiếm khoảng 1,2%. Với vận tải hành khách, đường bộ chiếm 62,9%, hàng không chiếm 34,2%, đường sắt chỉ chiếm 2,9% và đang có xu hướng giảm dần. Khi dự án ĐSTĐC được đưa vào khai thác, cơ cấu này sẽ thay đổi hoàn toàn. Đến năm 2050, về hàng hóa, đường bộ sẽ đảm nhận 9,08%; đường sắt 2,92%; đường thủy nội địa, hàng hải 87,74%, hàng không 0,27%. Về hành khách, vận tải đường bộ sẽ giảm mạnh chỉ còn 30,73%; đường sắt tăng mạnh với 32,99% và hàng không nhích lên một chút với 36,28%.