Tham luận nhấn mạnh đến tư tưởng của Chủ tịch Hồ Chí Minh coi “Công tư đều lợi - Chủ thợ đều lợi - Công nông giúp nhau - Lưu thông trong ngoài”. Tư tưởng đó đã được đưa vào cuộc sống và mang lại những thành tựu to lớn. Công cuộc khôi phục kinh tế giai đoạn 1955-1957 nhanh chóng hoàn thành, công cuộc cải tạo và phát triển kinh tế giai đoạn 1958-1960 giành những thắng lợi to lớn.
Quan điểm xuyên suốt của Chủ tịch Hồ Chí Minh là tầm nhìn thời đại, chỉ ra được mấu chốt con đường phát triển cho nền kinh tế nước nhà qua nhiều thời kỳ; kết hợp và phát huy các thành phần kinh tế là lý luận chủ đạo xuyên suốt các kỳ đại hội, đặc biệt là từ sau Đại hội lần thứ VI của Đảng đến nay. Việc vận dụng và phát huy các thành phần kinh tế đối với sự phát triển của đất nước là sự lựa chọn mang tính khoa học khách quan.
Từ nhu cầu của thực tế và kinh nghiệm của các nước trong quá trình đổi mới, Đảng ta theo tư tưởng Hồ Chí Minh đã vận dụng sáng tạo thừa nhận kinh tế nhiều thành phần, chấp nhận kinh tế thị trường và khẳng định nó không đối lập với chủ nghĩa xã hội, thực hiện phát triển nền kinh tế thị trường định hướng XHCN. Sự phát triển của các thành phần kinh tế đã góp phần thúc đẩy kinh tế phát triển, phát huy mọi nguồn lực đầu tư xã hội, giải quyết việc làm cho nhân dân, từng bước đưa đất nước phát triển bền vững.
“Sinh ra và lớn lên trong cảnh nước mất, nhà tan, chứng kiến bao nỗi đắng cay, khổ cực của nhân dân và nhiều cuộc khởi nghĩa, phong trào đấu tranh yêu nước, chống thực dân Pháp lần lượt thất bại, cách mạng Việt Nam rơi vào bế tắc như “không có đường ra”, người thanh niên yêu nước Nguyễn Tất Thành đã nung nấu quyết tâm tìm một con đường mới để cứu nước, cứu dân, giải phóng dân tộc. Người quyết định sang nước Pháp, hướng về các nước phương Tây, để tìm hiểu cho rõ những gì ẩn giấu đằng sau khẩu hiệu “Tự do, Bình đẳng, Bác ái”; và “...sau khi xem xét họ làm như thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”. Ngay tại phương Tây, Người đã sớm nhận ra rằng: các cuộc cách mạng tư sản dù vĩ đại như cách mạng Mỹ hay cách mạng Pháp vẫn không giải phóng được những người lao khổ, nghĩa là cách mạng không triệt để, không đến nơi. Hòa mình vào phong trào công nhân, phong trào xã hội ở Pháp và các quốc gia phương Tây khác, tích cực tham gia Quốc tế Cộng sản; Người đã tham gia sáng lập Đảng Cộng sản Pháp và sáng lập ra Hội Liên hiệp thuộc địa nhằm cổ vũ, đoàn kết, hướng dẫn nhân dân các nước thuộc địa đứng lên tự giải phóng. Từ thực tiễn hoạt động cách mạng phong phú ấy, khi được nghiên cứu bản “Sơ thảo lần thứ nhất những luận cương về vấn đề dân tộc và vấn đề thuộc địa” của V.I. Lênin dưới ánh sáng của cuộc Cách mạng Tháng Mười Nga, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã tìm ra con đường duy nhất đúng để cứu nước và giải phóng dân tộc, đó là con đường cách mạng vô sản, cách mạng dân tộc dân chủ nhân dân gắn liền với cách mạng xã hội chủ nghĩa. Đến với chủ nghĩa Mác - Lênin, bổ sung, phát triển, vận dụng sáng tạo vào thực tiễn cách mạng Việt Nam, Người trở thành tấm gương sáng ngời về sự trung thành tuyệt đối với lý tưởng cộng sản, về những đóng góp to lớn cho tình đoàn kết giữa nhân dân các nước, giữa giai cấp vô sản ở chính quốc và các dân tộc thuộc địa, giữa các nước xã hội chủ nghĩa anh em và giữa các lực lượng tiến bộ trên toàn thế giới trong sự nghiệp đấu tranh giải phóng dân tộc, giải phóng giai cấp, giải phóng con người. Là biểu tượng cao đẹp của chủ nghĩa yêu nước Việt Nam, Chủ tịch Hồ Chí Minh đã khơi dậy, phát huy truyền thống yêu nước quý báu của dân tộc ta lên tầm cao của chủ nghĩa anh hùng cách mạng, phát huy sức mạnh vô tận của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh giành độc lập dân tộc và sự nghiệp kháng chiến, kiến quốc. Người đã chỉ ra thời cơ lớn cho dân tộc Việt Nam với ý chí mãnh liệt: “Dù hy sinh tới đâu, dù có phải đốt cháy cả dãy Trường Sơn cũng phải kiên quyết giành cho được độc lập”, động viên toàn dân ta vùng lên khởi nghĩa giành chính quyền, đập tan xiềng xích nô lệ của chế độ thực dân, phong kiến, làm nên thắng lợi của cuộc Cách mạng Tháng Tám, khai sinh ra nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa. Thắng lợi đó không chỉ là một mốc son chói lọi trong lịch sử dân tộc Việt Nam mà còn là bước ngoặt đánh dấu sự sụp đổ của chủ nghĩa thực dân, mở ra một thời đại mới cho phong trào đấu tranh giành độc lập của nhân dân các nước thuộc địa; minh chứng cho lời khẳng định đanh thép của Chủ tịch Hồ Chí Minh trong bản Tuyên ngôn độc lập trước toàn thể quốc dân đồng bào: tất cả các dân tộc trên thế giới đều sinh ra bình đẳng; dân tộc nào cũng có quyền sống, quyền sung sướng và quyền tự do. Nước Việt Nam có quyền hưởng tự do và độc lập, và sự thật đã thành một nước tự do, độc lập!”. Đồng chí NGUYỄN XUÂN THẮNG Bí thư Trung ương Đảng, Giám đốc Học viện Chính trị quốc gia Hồ Chí Minh, Chủ tịch Hội đồng Lý luận Trung ương |