Khát vọng Đổi mới
Trong suốt cuộc đời làm việc cũng như hơn 20 năm sau khi nghỉ hưu, tôi vẫn tiếp tục tham gia, quan sát các hoạt động của các doanh nghiệp, của người Việt Nam nói chung trong các hoạt động kinh tế. Điều tôi mừng vô cùng khi thấy người Việt Nam có tinh thần và ý chí kinh doanh cao. Đấy là một nhân tố vô cùng quý của đặc tính người Việt, thể hiện rõ trong thời đại ngày nay.
Tôi xin kể một câu chuyện mà tôi còn nhớ mãi, nó như một “kỳ tích” của Việt Nam. Đó là vào năm 1986, Việt Nam phải nhập khẩu từ nửa triệu đến 1 triệu tấn lương thực/năm, nhưng vào năm 1988, tức chỉ hơn 1 năm sau Đổi mới, chúng ta xuất khẩu 1 triệu tấn gạo đầu tiên ra nước ngoài.
Từ tình trạng thiếu ăn đến dư thừa gạo và xuất khẩu, sau đó đã vươn lên trở thành nước đứng thứ 3 trên thế giới về xuất khẩu gạo. Một sự thay đổi gần như rất ngắn làm cho rất nhiều chuyên gia của các nước hỏi tại sao lại có thể như thế?
Câu trả lời rất rõ ràng: Đó chỉ có thể là giải phóng sức dân, những người liên quan đến nông nghiệp để họ chung tay cùng nhau vực dậy nền nông nghiệp, là ngay lập tức thay đổi. Cùng với đó, Nhà nước đã thay đổi về cơ chế phân bổ nguồn lực, cơ chế về tiêu dùng trong nước. Thay vì hệ thống mậu dịch quốc doanh, Nhà nước đã để cho thị trường làm công việc phân phối của mình.
Tương tự, mục tiêu ban đầu của Đổi mới là phát triển hàng tiêu dùng, thì cũng ngay lập tức, bao nhiêu thứ còn thiếu thốn như quần áo, giày dép để đi là có những doanh nghiệp sản xuất kinh doanh rồi trao đổi hàng hóa với nhau giữa Bắc và Nam. Nhu cầu đó được lấp khá nhanh bằng chính những người Việt.
Vì lúc bấy giờ chúng ta chưa nhập khẩu được nhiều, và nền xuất khẩu bắt đầu hình thành từ những hoạt động gia công hàng may mặc đầu tiên của Việt Nam, để sau này xuất khẩu ra thế giới bên ngoài. Đó là tinh thần kinh doanh của người Việt, và trong suốt gần 40 năm Đổi mới, tinh thần đó tiếp tục và nâng cấp để trở thành sức mạnh hiện nay.
Ngày nay, bất cứ quốc gia nào cũng coi con người là tiềm năng, là nguồn lực quan trọng số 1 của quốc gia đó. Đối với Việt Nam, nhất là trong bối cảnh kinh tế, chúng ta chuyển đổi, rõ ràng là do con người Việt Nam với tinh thần kinh doanh cao, với ý chí tự chủ, tự lực, tự cường, phấn đấu để vươn lên với tinh thần ham học hỏi và tinh thần sẵn sàng thay đổi, sẵn sàng ứng dụng những sáng tạo, những cái mới vào cuộc sống cho mình. Người dân có tố chất như vậy, đã chứng tỏ sức mạnh lớn nhất của Việt Nam hiện nay cũng như trong tương lai.
Phải phân định rõ vai trò của Nhà nước - thị trường - xã hội
Như Tổng Bí thư Tô Lâm có phát biểu rất quan trọng về chống lãng phí, và khẳng định lãng phí làm phân tán nguồn lực của đất nước. Câu hỏi đặt ra là có cách nào để phân bổ được nguồn lực tốt hơn cho phát triển, vì trong không ít lĩnh vực hiện nay việc phân phối nguồn lực vẫn thực hiện theo mệnh lệnh hành chính, thay vì tín hiệu thị trường.
Đây là vấn đề lớn, gây ra tình trạng lãng phí trong sử dụng nguồn lực. Ngay với nguồn tài nguyên lớn nhất là con người, cũng chưa được khai thác và đầu tư thích đáng. Tình trạng này có nhiều nguyên nhân.
Thứ nhất, chúng ta đang nói nhiều về thể chế và cải cách thể chế là yêu cầu số một trong giai đoạn hiện nay. Nhưng phải phân định rõ hơn vai trò, quan hệ giữa ba trụ cột Nhà nước, thị trường và xã hội. Nhà nước là người đứng ra quản trị chung nền kinh tế đất nước.
Ở những thị trường kinh tế tự do nhất, Nhà nước vẫn có vai trò rất lớn vì đưa ra các chính sách, các cơ sở luật pháp, các văn bản pháp quy để điều hành và vận hành xã hội. Khi muốn thúc đẩy hoặc hạn chế ngành gì, Nhà nước thực hiện chủ yếu bằng những chính sách điều tiết, thí dụ như thuế hay chính sách ưu đãi.
Tuy nhiên, chúng ta chưa làm rõ được cải cách thể chế hiện nay cần làm gì. Do vậy, điều đầu tiên thay đổi về tư duy, nhận thức và từ đó đưa đến phân định rõ ràng vai trò của Nhà nước, thị trường và xã hội.
Thứ hai, các cơ quan thường phân bổ cho ngành mình nhiều nguồn lực, hoặc chiếm dụng quá nhiều nguồn lực, trong khi các ngành khác không có để phát triển. Đây là thí dụ về việc phân bổ nguồn lực không hiệu quả. Thứ ba, “thói quen” hay đúng hơn là “độ trì trệ” trong bộ máy Nhà nước, cũng là vấn đề cần cải cách thể chế.
Việt Nam đã chuyển sang nền kinh tế thị trường gần 40 năm nay. Chúng ta tham gia một loạt các hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó có những FTA thế hệ mới như CPTPP, EVFTA. Các FTA đều đòi hỏi sự đổi mới về thể chế ở nước mình cho tương ứng với thể chế kinh tế thị trường của các nước thành viên khác.
Vậy nhưng, nước ta vẫn giữ thói quen quản lý bằng “mệnh lệnh” hành chính là thói quen không tốt.
Cũng cần nói thêm rằng, bản thân thị trường không tự nó theo “định hướng xã hội chủ nghĩa”, mà Nhà nước đưa ra khuôn khổ luật pháp để điều chỉnh và khắc phục những khiếm khuyết của thị trường. Khi thế giới văn minh và ngày càng phát triển, bản thân thị trường biết đặt ra những luật chơi riêng của nó, bên cạnh luật chơi chung mà Nhà nước đặt ra.
Tôi xin lấy thí dụ, những tiêu chuẩn CSR (corporate social responsibility - trách nhiệm xã hội của doanh nghiệp) được áp dụng rộng rãi cho doanh nghiệp. Doanh nghiệp nào không đáp ứng được yêu cầu sẽ không xuất khẩu sang được những nước tiên tiến.
Khi Việt Nam bắt đầu có hiệp định thương mại song phương với Mỹ, các doanh nghiệp xuất khẩu sang Mỹ như dệt may, giày dép, thủy sản… đều phải cố gắng áp dụng tiêu chuẩn CSR để chứng minh với khách hàng. Sau này khi thấy điều đó chưa đủ, các doanh nghiệp, các tổ chức lại cùng nhau đưa ra tiêu chuẩn mới ESG (Environment là môi trường, Social là trách nhiệm xã hội, và Governance là quản trị). Nghĩa là, hệ thống quản trị phải minh bạch, liêm chính, không tham nhũng, không hối lộ.
Một loạt các tiêu chuẩn về văn hóa, đạo đức của doanh nghiệp cũng được lồng vào tiêu chuẩn quản trị của doanh nghiệp. Từ đó, buộc các doanh nghiệp phải nâng dần chất lượng hoạt động của mình lên theo những chuẩn mực và yêu cầu của thị trường.
Phải xóa bỏ tư duy “không quản được thì cấm”
Tư duy "không quản được thì cấm" không đúng về vai trò, chức năng của Nhà nước trong nền kinh tế thị trường. Thời bao cấp, kinh tế kế hoạch hóa tập trung, Nhà nước có vai trò tuyệt đối. Tuy nhiên, khi chuyển sang kinh tế thị trường thì vai trò giữa Nhà nước, thị trường và xã hội phải được phân định rạch ròi.
Chính tư duy chưa đúng đắn về vai trò của Nhà nước, rằng Nhà nước có trách nhiệm và có quyền quản lý tất cả hoạt động của đời sống kinh tế xã hội, nên mới xảy ra chuyện không quản được thì cấm.
Hiến pháp quy định rõ quyền hạn, trách nhiệm và chức năng của Nhà nước. Nhà nước chỉ được thực hiện những quyền gì và không được vượt quá quyền đó. Quản như thế nào, bằng những công cụ gì phải căn cứ vào hệ thống pháp luật. Đây là nguyên tắc đầu tiên.
Điều đáng buồn là hiện nay hầu hết các luật có rất nhiều quy định về trách nhiệm, nghĩa vụ của người dân, có chế tài phạt người vi phạm, nhưng lại có ít quy định, thậm chí chỉ có vài dòng đơn giản, chung chung về quyền hạn và trách nhiệm của Nhà nước.
Ở các nước, công chức nhà nước chỉ có quyền thi hành công vụ, làm những việc mà luật pháp cho phép, trong khi người dân có thể làm những điều luật pháp không cấm, phạm vi hoàn toàn khác nhau. Vì vậy, đừng nhầm lẫn Nhà nước được phép quản và cần phải quản hay có quyền cấm.
Thí dụ, hiện nay chúng ta đưa ra câu chuyện tiền kiểm hay hậu kiểm để xem xét. Tiền kiểm là kiểm soát, hạn chế doanh nghiệp và người dân ngay từ đầu, khi họ có một dự án hay một kế hoạch định làm. Trên thực tế, từ lúc có ý định đến lúc dự án hình thành và vận hành còn nhiều nhân tố khác tác động. Kiểm tra hành vi của người dân, doanh nghiệp có tuân thủ đúng pháp luật hay không, sẽ chỉ thực hiện được sau khi người ta đã hoạt động.
Cho nên, khâu tiền kiểm là vô nghĩa. Chỉ có hậu kiểm mới có cơ sở, có bằng chứng để Nhà nước có thể kiểm soát, phát hiện ra người dân, doanh nghiệp làm đúng hay không đúng pháp luật, từ đó Nhà nước có thể phạt, uốn nắn, cảnh báo để họ làm đúng pháp luật.
Trong một loạt lĩnh vực, chúng ta đưa ra các ưu đãi để khuyến khích doanh nghiệp FDI như giảm thuế, giảm giá thuê đất, nhân công giá rẻ. Đổi lại, họ hứa hẹn tạo ra bao nhiêu việc làm, bao nhiêu sản phẩm xuất khẩu, bao nhiêu phần trăm nội địa hóa, nhưng họ có thực hiện đâu.
Phải đến lúc hậu kiểm chúng ta mới thấy, họ không thực hiện những cam kết đó, thậm chí vi phạm pháp luật. Nhưng chúng ta không phạt họ được. Vì vậy, phải thay đổi từ tiền kiểm sang hậu kiểm.
Tôi cho rằng, hiện nay là cơ hội lớn để cho tất cả mọi người, mọi tầng lớp tham gia vào Đổi mới thể chế để phá vỡ “điểm nghẽn” này. Nếu không thoát khỏi “điểm nghẽn” này, Việt Nam không vươn mình được, nền kinh tế không thể vươn lên được.
Phải hành động cụ thể để lời khẳng định của Tổng Bí thư Tô Lâm sẽ được nhanh chóng lan tỏa và thực hiện ở tất cả các cấp khác nhau, từ những cấp có trách nhiệm cao nhất đối với vận mệnh chung của đất nước, đến các tầng lớp xã hội của người dân.
Tinh thần Đổi mới ở Việt Nam bùng lên mạnh mẽ trong xã hội, đặc biệt là trong giới lãnh đạo. Tất nhiên, các vấn đề của thời đại ngày nay đương nhiên khác với những vấn đề của gần 40 năm trước khi chúng ta Đổi mới vào cuối năm 1986. Vì thế, chúng ta cũng phải đổi mới tư duy, đổi mới nhận thức để nhìn nhận lại những vấn đề của thời đại, đặc biệt là những tác động của thế giới mà chúng ta đang hội nhập sâu rộng.