Phóng viên Báo SGGP đã trao đổi với PGS-TS Vũ Hải Quân, Giám đốc ĐHQG TPHCM, để làm rõ hơn về vấn đề này.
PHÓNG VIÊN: Trong định hướng chiến lược sắp tới của ĐHQG TPHCM, vấn đề TCĐH được thể hiện ra sao, thưa ông?
PGS-TS VŨ HẢI QUÂN: Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XIII đã xác định 3 đột phá chiến lược trong đó có đột phá về phát triển nguồn nhân lực, nhất là nguồn nhân lực chất lượng cao. Để hiện thực hóa được đột phá chiến lược này, bên cạnh việc triển khai thực hiện hiệu quả chủ trương đầu tư trọng điểm của Nhà nước thì TCĐH được xác định là giải pháp trọng tâm. Tự chủ về quản trị và tổ chức bộ máy sẽ giúp các ĐH chủ động tuyển dụng được những nhà khoa học, giảng viên, sinh viên xuất sắc; xây dựng và vận hành được hệ thống chỉ số đánh giá hiệu quả hoạt động. Tự chủ về tài chính giúp đa dạng hóa nguồn thu, từ việc khai thác tài sản trí tuệ, cơ sở vật chất đến việc chủ động hợp tác với doanh nghiệp, hình thành và vận hành các quỹ tài trợ, chủ động quyết định các khoản chi.
Tự do học thuật là nhân tố quan trọng nhất để đảm bảo ĐH thực sự trở thành nơi sáng tạo tri thức mới, thúc đẩy tiến bộ xã hội. ĐH phải được quyền quyết định các vấn đề học thuật như tuyển sinh, đào tạo, mở ngành mới, quyết định về phương pháp, ngôn ngữ giảng dạy, các vấn đề về đảm bảo và kiểm định chất lượng…
Theo đó, về quản trị, tính từ đầu năm 2021 đến nay, ĐHQG TPHCM đã tái cơ cấu, sắp xếp lại bộ máy, sáp nhập 3 đơn vị trực thuộc và 2 đơn vị cấp ban để tăng hiệu quả hoạt động. Về đào tạo và nghiên cứu khoa học, ĐHQG TPHCM đã xây dựng chiến lược đào tạo 3 ngành trọng điểm: trí tuệ nhân tạo, công nghệ sinh học - y sinh và khoa học vật liệu tiên tiến, đồng thời đang hoàn thiện thủ tục thành lập Trung tâm nghiên cứu dịch bệnh để có thể chủ động về thuốc, vaccine, đối phó với các biến thể của virus trong tương lai.
Việc TCĐH đang gặp nhiều vướng mắc, cả về chính sách, khung pháp lý, thủ tục và thực tế triển khai… Ông có thể lý giải được điều này?
Về đầu tư của Nhà nước cho GDĐH, theo tôi, cần sớm xây dựng và ban hành chiến lược tổng thể phát triển GDĐH ở Việt Nam, trong đó có phân tích, dự báo nhu cầu về nguồn nhân lực trình độ cao cho mỗi giai đoạn, đề xuất kinh phí đầu tư của nhà nước để đào tạo nhóm lao động này, từ đó sớm xây dựng và triển khai cơ chế đặt hàng đào tạo đối với các trường ĐH trong đó có 2 ĐHQG. Bên cạnh nguồn đầu tư chiều sâu cho cơ sở vật chất, phòng thí nghiệm, cần quan tâm đầu tư trực tiếp cho các nhà khoa học giỏi. Có lộ trình điều tiết ngân sách nhà nước đối với các trường ĐH tự chủ theo hướng chỉ dừng cấp ngân sách chi thường xuyên sau khi trường ĐH đã tự chủ xong một chu kỳ đào tạo (4-5 năm), để đảm bảo việc tăng học phí của các trường ĐH tự chủ theo lộ trình. Sớm hoàn thiện các thể chế chính sách pháp luật để thúc đẩy hợp tác PPP, nghiên cứu chuyển giao khoa học - công nghệ, thúc đẩy văn hóa hiến tặng…
Tiếp theo, cần mở rộng đối tượng được hưởng chính sách tín dụng sinh viên. Điều chỉnh mức cho vay nhằm đảm bảo cho sinh viên có thể chi tiêu cho đời sống bằng nhóm trung bình của xã hội và đủ tiền nộp học phí. Giảm mức lãi suất cho vay đối với sinh viên là 3%-4%/năm hoặc chia theo lộ trình trong thời gian đi học được áp dụng lãi suất vay ưu đãi là 3%-4%/năm; sau khi tốt nghiệp sẽ áp dụng lãi suất cao hơn. Điều chỉnh thời gian vay tối thiểu 15 năm hoặc gấp 3 lần thời gian vay (ví dụ học 4 năm được vay và trả nợ vay tối đa là 12 năm; học 7 năm tối đa là 21 năm). Nghiên cứu xây dựng và sớm ban hành chính sách tín dụng cho vay thương mại dành cho sinh viên.
Sau 25 năm xây dựng và phát triển, ĐHQG TPHCM đã và đang hình thành mô hình hệ thống các trường ĐH hiện đại trong quản lý, tiên tiến trong công tác đào tạo và nghiên cứu khoa học, hiệu quả, thiết thực trong phục vụ cộng đồng... Theo công bố của Tổ chức Xếp hạng QS, ĐHQG TPHCM lần thứ 3 có tên trong tốp 801-1.000 ĐH xuất sắc nhất thế giới, là ĐH duy nhất của Việt Nam xuất hiện trong bảng xếp hạng về tỷ lệ sinh viên tốt nghiệp có việc làm tốt nhất thế giới ở vị trí 301-500. Chỉ tính riêng trong giai đoạn 2016-2020, ĐHQG TPHCM đã đào tạo và cung cấp cho TPHCM và các tỉnh, thành phía Nam hơn 60.000 cử nhân, kỹ sư, bác sĩ, thạc sĩ, tiến sĩ. |