Quy định chưa đồng bộ
Theo PGS-TS Phan Thị Bích Nguyệt, nguyên Phó Hiệu trưởng Trường ĐH Kinh tế TPHCM, các trường ĐH đã và sẽ tự chủ vẫn cho rằng cơ sở pháp lý về tự chủ ĐH hiện chưa vững chắc và thiếu đồng bộ, hệ thống văn bản quy phạm pháp luật vẫn còn những quy định chưa phù hợp đối với quá trình vận hành của các trường được giao tự chủ; một số văn bản quy định còn thiếu tính cụ thể, khó khăn khi triển khai.
GS Lê Vinh Danh, Hiệu trưởng Trường ĐH Tôn Đức Thắng, cũng băn khoăn: “Nếu theo các quy định hiện nay về trường công lập tự chủ thì trường tôi là đơn vị duy nhất nằm ngoài luật, vì từ khi thành lập đến nay trường không nhận nguồn tiền từ ngân sách. Tất cả dự án đầu tư đều được trường sử dụng vốn tự có (vốn tích lũy và vốn vay), tuân thủ theo đúng quy định của Luật Xây dựng, nhưng thanh tra vẫn quy chúng tôi vi phạm là không đấu thầu. Lý lẽ của thanh tra là có từ trường công thì phải theo Luật Đấu thầu, Luật Đầu tư công”.
TS Nguyễn Thị Kim Phụng, Vụ trưởng Vụ Giáo dục ĐH, chia sẻ, lĩnh vực giáo dục còn bị ràng buộc bởi hàng loạt luật khác nên hành lang pháp lý để thực hiện tự chủ 100% như Luật Giáo dục ĐH sửa đổi, bổ sung (Luật số 34) là rất khó. “Chúng tôi kiến nghị các luật có liên quan cần được sửa đổi, bổ sung và hoàn thiện để hình thành khung pháp lý thực hiện tự chủ ĐH đồng bộ, nhất quán và có tính khả thi”, TS Nguyễn Thị Kim Phụng nhấn mạnh.
Trong khi đó, theo GS Trần Hồng Quân, Chủ tịch Hiệp hội Các trường ĐH - cao đẳng Việt Nam, sự can thiệp hiện nay của các cơ quan chủ quản về vấn đề bổ nhiệm nhân sự, đầu tư... là triệt tiêu quyền của hội đồng trường, trong khi Luật số 34 đã quy định rất rõ quyền của hội đồng trường. Nếu vẫn để tồn tại thực tế này thì việc thực hiện tự chủ cho các trường ĐH là rất khó khăn.
Đồng quan điểm, GS Phạm Phụ, Trường ĐH Bách khoa TPHCM, cho rằng với cách như hiện nay thì hội đồng trường chỉ làm cho có, không đúng bản chất. Thậm chí đưa cả lãnh đạo địa phương vào hội đồng trường, nhưng khi họp hành thì không tham dự.
Tự chủ đã được luật định
Từ năm 2005 đến nay, trong các nghị quyết của Đảng, Quốc hội, Chính phủ, vấn đề đổi mới giáo dục ĐH, đổi mới quản lý luôn được thể hiện xuyên suốt, trong đó vấn đề tự chủ ĐH được xem là xu thế tất yếu. Nghị quyết số 14 ngày 2-11-2005 của Chính phủ về đổi mới cơ bản toàn diện giáo dục ĐH Việt Nam giai đoạn 2006-2020 xác định: “Xóa bỏ cơ chế bộ chủ quản, xây dựng cơ chế đại diện sở hữu nhà nước đối với các cơ sở giáo dục ĐH công lập”. Tiếp đến là Nghị quyết 50 ngày 19-6-2010 của Quốc hội khóa XII, xác định nhiệm vụ “tiến tới xóa bỏ cơ chế cơ quan chủ quản đối với các cơ sở giáo dục ĐH”.
Đặc biệt, Nghị quyết số 29 ngày 4-11-2013 của Ban Chấp hành Trung ương khóa XI đưa ra nhiệm vụ, giải pháp: “Đẩy mạnh phân cấp, nâng cao trách nhiệm, tạo động lực và tính chủ động, sáng tạo của các cơ sở giáo dục, đào tạo… Giao quyền tự chủ, tự chịu trách nhiệm cho các cơ sở giáo dục, đào tạo”.
Sau đó 3 năm, Nghị quyết số 89 ngày 10-10-2016 của Chính phủ xác định: “Chính phủ thống nhất chủ trương đẩy mạnh thực hiện tự chủ ĐH gắn với nâng cao chất lượng giáo dục ĐH. Theo đó, các trường ĐH được giao quyền tự chủ cả về chuyên môn, tổ chức nhân sự, tài chính và tăng cường trách nhiệm giải trình; giảm mạnh sự can thiệp hành chính của các cơ quan chủ quản đối với hoạt động của các trường ĐH, tiến tới xóa bỏ cơ chế chủ quản”.
Nghị quyết số 19 ngày 25-10-2017 Ban Chấp hành Trung ương khóa XII cũng nhấn mạnh nội dung: “Đẩy mạnh việc phân cấp, giao quyền tự chủ cho các đơn vị sự nghiệp công lập theo hướng phân định rõ việc quản lý nhà nước với quản trị đơn vị sự nghiệp công lập và việc cung ứng dịch vụ sự nghiệp công… Bộ chỉ thực hiện chủ quản đối với các đơn vị sự nghiệp công lập phục vụ nhiệm vụ quản lý nhà nước của bộ và những đơn vị trọng điểm, chuyên sâu”.
Và mới nhất là Luật số 34 (có hiệu lực từ ngày 1-7-2019) đã mở rộng quyền tự chủ cho các trường ĐH. Trong đó, quy định khá chi tiết về việc giao quyền tự chủ cho các trường trong học thuật và hoạt động chuyên môn; tổ chức và nhân sự; tài chính và tài sản…