Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam vừa ký Nghị định số 104/2022/NĐ-CP của Chính phủ sửa đổi, bổ sung một số điều của các nghị định liên quan đến việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công. Nghị định 104/2022/NĐ-CP có hiệu lực từ 1-1-2023.
Nghị định số 104/2022/NĐ-CP bỏ quy định về việc nộp, xuất trình sổ hộ khẩu, sổ tạm trú giấy khi thực hiện TTHC, cung cấp dịch vụ công, chủ yếu thuộc nhiều lĩnh vực như: việc làm, bảo hiểm y tế, giáo dục, y tế, đất đai, thuế, nhà ở, nhà ở xã hội, điện lực, nuôi con nuôi…
Thay vào đó, khi thực hiện các thủ tục trên, người dân chỉ cần xuất trình một trong các loại giấy tờ: thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân, giấy xác nhận thông tin về cư trú, giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư. Nội dung này thực hiện theo quy định của Luật Cư trú có hiệu lực thi hành từ ngày 1-7-2021.
Cũng theo Nghị định 104/2022/NĐ-CP, việc khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư được thực hiện bằng một trong các phương thức sau: 1 - tra cứu, khai thác thông tin cá nhân qua chức năng của Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh đã được kết nối với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư hoặc qua cổng dịch vụ công quốc gia; 2 - tra cứu thông tin cá nhân thông qua tài khoản định danh điện tử của công dân được hiển thị trong ứng dụng VNelD; 3 - sử dụng thiết bị đầu đọc đã được kết nối trực tuyến với Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư, bao gồm thiết bị đọc mã QR (QR Code) hoặc thiết bị đọc chip trên thẻ căn cước công dân gắn chip; 4 - các phương thức khai thác khác theo quy định của pháp luật chuyên ngành.
Cũng theo quy định, cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công phải khai thác, sử dụng thông tin về cư trú của công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư để giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công.
Thông tin về cư trú của công dân tại thời điểm làm TTHC được cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân có trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết TTHC ghi nhận và lưu giữ trong hồ sơ TTHC trên Hệ thống thông tin giải quyết TTHC cấp bộ, cấp tỉnh.
Trường hợp không thể khai thác được thông tin cư trú của công dân theo các phương thức nêu trên, cơ quan có thẩm quyền, cán bộ, công chức, viên chức, cá nhân được giao trách nhiệm tiếp nhận, giải quyết TTHC, cung cấp dịch vụ công có thể yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình một trong các giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú.
Việc yêu cầu công dân nộp bản sao hoặc xuất trình giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú được nêu cụ thể trong quyết định công bố TTHC của bộ, cơ quan, địa phương hoặc các văn bản thông báo dịch vụ của cơ quan, tổ chức cung cấp dịch vụ.
Các loại giấy tờ có giá trị chứng minh thông tin về cư trú bao gồm: thẻ căn cước công dân, chứng minh nhân dân, giấy xác nhận thông tin về cư trú, giấy thông báo số định danh cá nhân và thông tin công dân trong Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư.
Đến thời điểm này, Bộ Công an đã thu thập, cập nhật hơn 100 triệu dữ liệu dân cư (dữ liệu đã được “làm sạch” hơn 96%); thực hiện cấp hơn 70,2 triệu thẻ căn cước công dân có gắn chíp. Chính thức đưa vào vận hành khai thác Cơ sở dữ liệu quốc gia về dân cư từ ngày 1-7-2021 và đã sẵn sàng kết nối, chia sẻ thông tin với các Cơ sở dữ liệu của các bộ, ngành để phục vụ giải quyết các TTHC liên quan đến thông tin công dân.
Đến nay, 63/63 tỉnh thành đã triển khai thực hiện đăng ký khai sinh trực tuyến, 50/63 tỉnh, thành đã triển khai thực hiện đăng ký kết hôn trực tuyến, 55/63 tỉnh thành đã triển khai thực hiện đăng ký khai tử trực tuyến.
Như vậy, từ ngày 1-1-2023, người dân không cần xác nhận bằng giấy, thay vào đó xác nhận trên môi trường điện tử, không cần sử dụng giấy tờ như trước đây khi thực hiện TTHC cung cấp dịch vụ công.