Bao đời nay, Việt Nam vốn là một dân tộc yêu hòa bình và muốn làm bạn với tất cả các quốc gia trên thế giới. Chúng ta chỉ muốn sống hòa hiếu, hữu hảo thật lòng với láng giềng và bạn bè quốc tế năm châu. Nhưng chúng ta sẵn sàng làm tất cả để hòa bình, độc lập, thống nhất của Tổ quốc được vẹn toàn.
Đã 45 năm trôi qua, nhưng hình ảnh chiếc xe tăng quân giải phóng húc đổ cánh cổng sắt và lá cờ giải phóng tung bay trên kỳ đài Dinh Độc Lập trưa ngày 30-4-1975 vẫn còn ngời sáng trong tâm trí của hàng triệu người dân Việt Nam, trở thành niềm tự hào, niềm hạnh phúc lớn lao, sự trân quý thiêng liêng của toàn dân tộc. Ngày chiến thắng 30-4-1975, giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước, độc lập dân tộc, cả nước đi lên chủ nghĩa xã hội.
Đó là thắng lợi to lớn, toàn diện và triệt để của 30 năm chiến tranh giải phóng, một thắng lợi có ý nghĩa lịch sử của dân tộc ta. Thắng lợi của sự nghiệp chống Mỹ, cứu nước “là sự kế tục và phát triển cao độ thắng lợi vĩ đại của Cách mạng Tháng Tám và của cuộc kháng chiến chống Pháp, là thắng lợi triệt để của nhân dân ta trong cuộc đấu tranh quyết liệt để giải quyết vấn đề ‘ai thắng ai’ giữa độc lập dân tộc và chủ nghĩa thực dân mới trên đất nước ta”, như lời khẳng định của cố Tổng Bí thư Trường Chinh.
Để đi tới chiến thắng vĩ đại, giành lại độc lập, tự do cho Tổ quốc, thu non sông về một mối, cả dân tộc ta đã bền gan vững chí, kiên trì đấu tranh, vượt qua bao khó khăn, gian khổ, hy sinh trong suốt 30 năm, đi từ thắng lợi này đến thắng lợi khác. Đặc biệt, từ đầu tháng 3-1975, dưới sự lãnh đạo của Đảng, quân và dân ta đã tiến hành cuộc Tổng tiến công và nổi dậy trên toàn miền Nam, thực hiện liên tiếp các chiến dịch then chốt, quyết định, như: Tây Nguyên, Huế - Đà Nẵng và Chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử.
Trong 55 ngày đêm tiến công và nổi dậy, với tốc độ “một ngày bằng hai mươi năm”, với sức mạnh áp đảo cả về quân sự, chính trị, quân và dân ta đã đập tan hoàn toàn bộ máy quân sự khổng lồ của chính quyền tay sai, với đội quân lên tới 1,1 triệu người, trong đó có 4 quân đoàn chủ lực, 6 sư đoàn không quân và hàng chục trung, lữ đoàn pháo binh, hải quân của quân đội Sài Gòn.
Thắng lợi trọn vẹn của cuộc Tổng tiến công và nổi dậy mùa xuân 1975 là kết quả cuối cùng của cả một quá trình kháng chiến lâu dài, bền bỉ, quyết chiến, quyết thắng của quân và dân trên cả hai miền Nam - Bắc nhằm đánh bại từng chiến lược chiến tranh của Mỹ và chính quyền Sài Gòn. Đó là thắng lợi của bản lĩnh Việt Nam, văn hóa Việt Nam; thắng lợi của sự vận dụng sáng tạo tư tưởng quân sự tiên tiến vào điều kiện, hoàn cảnh cụ thể của cách mạng và chiến tranh cách mạng Việt Nam; thắng lợi của sức mạnh khối đoàn kết toàn dân, đoàn kết quốc tế, của chế độ xã hội mới được xây dựng trên miền Bắc và ở vùng giải phóng miền Nam, của tình đoàn kết chiến đấu, gắn bó keo sơn, bền chặt giữa nhân dân 3 nước Việt Nam - Lào - Campuchia.
Đại thắng mùa xuân đã thêm một lần nữa khẳng định sức mạnh của Quân đội nhân dân Việt Nam, một quân đội từ nhân dân mà ra và do những người Cộng sản chân chính xây dựng, lãnh đạo, giáo dục và rèn luyện. Quân đội ấy đã trở thành quân đội duy nhất trên thế giới đã đánh bại 2 đội quân xâm lược hùng mạnh bậc nhất lúc bấy giờ.
Sức mạnh của đội quân vô địch
Thắng lợi của nhân dân ta trong cuộc kháng chiến chống Mỹ, cứu nước mà đỉnh cao là chiến dịch Hồ Chí Minh lịch sử với sự kiện ngày 30-4-1975 giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước cách đây đúng 45 năm đã khẳng định chân lý: Chỉ khi chiến đấu với lòng yêu nước và đặt dưới sự lãnh đạo của Đảng thì Quân đội nhân dân Việt Nam mới có đủ sức mạnh chiến đấu và cùng với cả dân tộc viết nên bản anh hùng ca trong thế kỷ 20. Trong 45 năm qua, kể từ thời điểm lịch sử ấy, sức mạnh Việt Nam, trong đó có sức mạnh của quân đội chính nghĩa đã giúp chúng ta giữ vững độc lập tự chủ, toàn vẹn lãnh thổ và duy trì nền hòa bình bền vững như ngày nay. Khi nhận định về cuộc chiến tranh giải phóng miền Nam của quân dân ta, Henry Kissinger - Cố vấn an ninh quốc gia Mỹ, cũng phải nhấn mạnh: “Hà Nội chỉ chiến đấu với một lẽ duy nhất, đó là lòng yêu nước của họ”.
45 năm sau ngày Quân đội nhân dân Việt Nam thực hiện được sứ mệnh thiêng liêng đưa giang san về một mối, trách nhiệm của các thế hệ cán bộ chiến sĩ quân đội và mỗi người Việt Nam hiện nay cũng như sau này là phải tiếp tục giữ được nền độc lập, thống nhất, toàn vẹn chủ quyền, lãnh thổ Tổ quốc và một nền hòa bình bền vững cho đất nước. Vì thế, Quân đội nhân dân Việt Nam cần tiếp tục phải được lãnh đạo bởi một Đảng luôn luôn trung thành với lý tưởng vì độc lập dân tộc và chủ nghĩa xã hội.
Lo giữ nước từ khi nước chưa nguy
Hòa bình và an ninh thế giới luôn là khát vọng của mọi dân tộc, nhưng ngay giờ phút này, thế giới vẫn đang phải đối mặt với nhiều thách thức an ninh mới, đan xen giữa thách thức an ninh phi truyền thống và an ninh truyền thống. Nhiều vấn đề vượt ra ngoài dự báo thông thường. Không phải lúc nào Hiến chương Liên hiệp quốc và luật pháp quốc tế cũng được tôn trọng. Khi lợi ích cục bộ, chủ nghĩa đơn phương được đẩy cao; khi lòng tin và sự thuận hòa giữa các nước lớn bị đóng băng sẽ đồng thời tạo ra những cơn “sóng ngầm” đe dọa an ninh, lợi ích và gây ra quan ngại cho các quốc gia còn lại. Những khác biệt lớn về lợi ích, toan tính chính trị là rào cản quá lớn để có thể tháo gỡ những nút thắt cho nền hòa bình bền vững của nhân loại.
Cuộc tranh giành hay thỏa hiệp về quyền lực, uy thế và lợi ích chiến lược giữa các cường quốc lúc nào cũng xảy ra, chỉ có phương tiện, phương thức chiến tranh, xung đột là thay đổi theo tình hình. Nhận thức được những khó khăn, thách thức đó, những năm qua, Bộ Chính trị đã có những định hướng về chiến lược quốc phòng, chiến lược quân sự, chiến lược bảo vệ Tổ quốc trên không gian mạng và chiến lược bảo vệ biên giới quốc gia, Quân ủy Trung ương, Bộ Quốc phòng đã tiến hành quán triệt sâu sắc các chiến lược này. Đây là cơ sở để xây dựng tổ chức biên chế quân đội, huấn luyện sẵn sàng chiến đấu và mua sắm vũ khí, trang bị, bảo đảm theo tinh thần tinh gọn, mạnh, đáp ứng với chiến tranh hiện đại trong điều kiện mới.
“Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, bài học quý báu của Chủ tịch Hồ Chí Minh cần được khắc ghi và vận dụng linh hoạt, sáng tạo trong hoạt động quốc phòng hiện nay. Sự “bất biến” đó là lợi ích chính đáng của chúng ta được lịch sử thừa nhận, được luật pháp quốc tế thừa nhận và được cộng đồng quốc tế thừa nhận. Ứng “vạn biến” đó là diễn biến của tình hình khu vực, trong quan hệ của ta với các nước. Mối quan hệ với các nước lớn, nước láng giềng luôn luôn đặt ra cho chúng ta phải nhận thức đúng về lợi ích quốc gia dân tộc, điều gì có lợi và điều gì bất lợi. Khi nắm chắc điều bất biến, chúng ta có thể lựa chọn điều có lợi. Không ai có thể ép chúng ta đi ngược, miễn đó là những gì hợp với luật pháp quốc tế và đạo lý của thời đại.
Với nhận thức sâu sắc rằng thế giới hiện nay đang phải đối phó với những vấn đề toàn cầu mà không một nước nào có thể tự đứng ra giải quyết được, Việt Nam đã và đang mở rộng quan hệ hợp tác nhiều mặt, song phương và đa phương, hợp tác chặt chẽ với các nước, các tổ chức quốc tế và khu vực. Chúng ta đã chiến đấu và chiến thắng để giành lại độc lập, tự do, thống nhất Tổ quốc. Chúng ta đánh để có hòa bình, vì thế chúng ta thực sự coi trọng những yếu tố, nhân tố để có được hòa bình.
Thứ nhất, chúng ta giữ hòa bình, hữu nghị với những nước bạn bè. Thứ hai, hòa bình, hữu nghị để tranh thủ nhận được sự ủng hộ của các quốc gia khác trên thế giới đối với sự nghiệp xây dựng đất nước của chúng ta. Thứ ba, kể cả với đối tượng đối nghịch, chúng ta bao giờ cũng sẵn sàng hòa bình nếu họ tôn trọng độc lập, chủ quyền của Việt Nam, từ bỏ ý chí xâm lược nước ta. Chủ trương nhất quán của Đảng, Nhà nước xác định nhiệm vụ chung là bảo vệ lãnh thổ, bảo vệ độc lập, bảo vệ chủ quyền của đất nước; bảo vệ lợi ích quốc gia - dân tộc, trong đó tập trung bảo vệ chế độ xã hội chủ nghĩa, bảo vệ Đảng, bảo vệ nhân dân; bảo vệ nền hòa bình bền vững cho đất nước. Đây là những mục tiêu chung của nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc và là nhiệm vụ trực tiếp của quân đội.
Chúng ta kiên quyết, kiên trì đấu tranh trên cơ sở nắm vững, tận dụng luật pháp quốc tế, giữ vững chủ quyền lãnh thổ, không để xảy ra xung đột, chiến tranh; không để mất ổn định nội bộ; không sử dụng lực lượng vũ trang giải quyết mâu thuẫn nội bộ nhân dân, mắc mưu khiêu khích, tạo cớ cho thế lực thù địch can thiệp quân sự; không để thế lực có tham vọng lãnh thổ lợi dụng hoặc thỏa hiệp với thế lực thù địch…
Nền tảng của sức mạnh nội sinh bảo vệ Tổ quốc là xây dựng nền quốc phòng toàn dân vững mạnh trên địa bàn cả nước. Đó là nền quốc phòng với tiềm lực, sức mạnh tổng hợp, được cấu thành trên cơ sở nguồn lực quốc gia và trong nhân dân, từ nhân dân, mang đậm tính chất tự vệ, không nhằm đe dọa bất cứ quốc gia nào. Giải pháp quan trọng là đẩy mạnh xây dựng quân đội chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, có chất lượng tổng hợp, sức chiến đấu cao, thực sự là lực lượng nòng cốt cho toàn dân trong thực hiện nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Dựng nước đi đôi với giữ nước là quy luật tồn tại của dân tộc ta. Quy luật đấy ngày nay được thể hiện ở 2 nhiệm vụ chiến lược là xây dựng chủ nghĩa xã hội và bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa. Chúng ta luôn “quyết tâm bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”, “kiên quyết, kiên trì đấu tranh bảo vệ độc lập, chủ quyền, thống nhất và toàn vẹn lãnh thổ Tổ quốc; giữ vững môi trường hòa bình, ổn định để phát triển đất nước”; “...hoạch định đường lối, chủ trương, chính sách về quốc phòng, an ninh, bảo vệ Tổ quốc và đối sách xử lý hiệu quả các tình huống và trong quan hệ đối ngoại; bảo đảm không bị động, bất ngờ về chiến lược, góp phần bảo vệ Tổ quốc từ sớm, từ xa”.
Chúng ta có được như ngày hôm nay vì mỗi người dân Việt Nam đã nuôi dưỡng khát vọng hòa bình, độc lập dân tộc và cùng nhau thực hiện khát vọng ấy. Vì vậy mà không có thử thách nào là không thể vượt qua; không có nhiệm vụ nào là không thể hoàn thành. Chừng nào chúng ta đoàn kết cùng nhau vì mục đích chung, duy trì quyết tâm chung, thì hành trình của đất nước sẽ luôn tiến lên phía trước. Mùa xuân đại thắng đó mãi là nhân chứng cho lịch sử Việt Nam, nhân chứng sáng đẹp khi cả dân tộc bước sang những trang sử mới. Giờ đây cả dân tộc vẫn đang trong hành trình bứt phá và làm nên những kỳ tích mới. Những kỳ tích mà không gì có thể thay thế được, đó là Tổ quốc Việt Nam hòa bình, độc lập, thống nhất, đó là con người Việt Nam thông minh, anh dũng, nhân hậu và khoan dung.
Quân đội nhân dân Việt Nam do Đảng Cộng sản Việt Nam và Chủ tịch Hồ Chí Minh sáng lập, lãnh đạo, giáo dục, rèn luyện, được nhân dân tin yêu, đùm bọc và nuôi dưỡng. Kế thừa và phát huy truyền thống 75 năm xây dựng, chiến đấu và trưởng thành, dưới sự lãnh đạo của Đảng, chúng ta tin tưởng rằng, Quân đội nhân dân Việt Nam sẽ tiếp tục viết nên những trang sử oanh liệt, hào hùng, làm rạng rỡ non sông, đất nước. Đảng, Nhà nước, nhân dân ta vô cùng tự hào về Quân đội nhân dân Việt Nam anh hùng và mong các thế hệ cán bộ, chiến sĩ lập nhiều chiến công, thành tích to lớn hơn nữa, xứng đáng với truyền thống hào hùng đã được Chủ tịch Hồ Chí Minh khẳng định: “Dân tộc ta là một dân tộc anh hùng, Quân đội ta là một Quân đội anh hùng”. NGUYỄN PHÚ TRỌNG (Tổng Bí thư Ban Chấp hành Trung ương Đảng Cộng sản Việt Nam, Chủ tịch nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam, Bí thư Quân ủy Trung ương) |