Thải nhiều nhưng tiêu thụ chậm
Theo số liệu tổng hợp từ Tập đoàn Điện lực Việt Nam (EVN), Tập đoàn Dầu khí Việt Nam (PVN), Tập đoàn Công nghiệp Than - Khoáng sản Việt Nam (TKV) và các nhà máy nhiệt điện khác, cả nước hiện có 31 nhà máy nhiệt điện đốt than đang hoạt động.

Lượng tro, xỉ phát thải có xu hướng tăng dần theo từng năm: Năm 2019 là 13,6 triệu tấn; năm 2020 là 14,8 triệu tấn; năm 2021 là 16,35 triệu tấn; năm 2022 là 15,78 triệu tấn; năm 2023 là 18,07 triệu tấn; và năm 2024 là hơn 20 triệu tấn. Tổng lượng tro, xỉ phát thải từ các nhà máy nhiệt điện trên cả nước xấp xỉ 20 triệu tấn/năm, 66% tập trung ở phía Bắc. Mặc dù lượng tiêu thụ tro, xỉ hơn 65% tổng lượng phát thải, nhưng lượng tồn đọng vẫn cao.
Tổng quan là vậy, nhưng thực tế tình hình tiêu thụ tro, xỉ không đơn giản. Mới đây, báo cáo với Thủ tướng, lãnh đạo Bộ Xây dựng cho biết, tro, xỉ ở một số nhà máy nhiệt điện được tiêu thụ chậm, tồn đọng nhiều như tại Cẩm Phả, Đông Triều, Mông Dương BOT, Vĩnh Tân 1 BOT, Vĩnh Tân 2, Duyên Hải. Các nhà máy như Nhiệt điện Đông Triều, Nhiệt điện Cẩm Phả đang vướng khâu tính toán giá bán tro, xỉ. Ở những nhà máy như Nhiệt điện Vĩnh Tân 1, 2, Nhiệt điện Duyên Hải, do bãi chứa tro, xỉ nằm cách xa nơi tiêu thụ, chi phí vận chuyển cao, nên chưa hấp dẫn nhiều chủ đầu tư dự án...
Bên cạnh đó, bã thải thạch cao của các nhà máy sản xuất hóa chất và phân bón (DAP) cũng đang chiếm số lượng lớn phải xử lý. Theo số liệu từ Bộ Công thương và Tập đoàn Hóa chất Việt Nam, cả nước có 3 nhà máy phát thải bã thải thạch cao lớn là Nhà máy DAP Đình Vũ (Hải Phòng), Nhà máy DAP số 2 Lào Cai, Nhà máy DAP Đức Giang - Lào Cai. Tổng lượng phát thải bã thạch cao của các nhà máy gần 1,4 triệu tấn/năm. Với lượng chất thải công nghiệp đồ sộ nói trên, các nhà máy phát thải cần diện tích lớn để làm bãi chứa và chịu áp lực trong việc bảo vệ môi trường, nhất là trong bối cảnh các địa phương ngừng cấp phép mở rộng bãi chứa chất thải.
Thiếu khung pháp lý
Theo tìm hiểu, hiện nay tro, xỉ được sử dụng nhiều nhất trong các lĩnh vực làm vật liệu san lấp, phụ gia khoáng cho xi măng, sau đó là làm phụ gia bê tông cho các công trình thủy lợi, công trình giao thông như đường bê tông xi măng vùng nông thôn, công trình xây dựng dân dụng, thay thế một phần nguyên liệu sản xuất gạch xây.
Theo các chuyên gia kinh tế, việc không sử dụng tro, xỉ trong các hồ sơ đấu thầu công trình dự án xây dựng là sự lãng phí lớn, bởi nguồn cát khai thác đang ngày càng khan hiếm. Đáng nói hơn, đường cao tốc thi công qua ĐBSCL đang bị thiếu cát đắp nền đường, trong khi tỉnh Trà Vinh có Nhà máy Nhiệt điện Duyên Hải với lượng tro, xỉ thải ra và còn trữ tại bãi lên đến hàng triệu tấn.
Ông Nguyễn Anh Vũ, Giám đốc Tài chính Công ty CP Hoàng Sơn Flyash and Cement, chia sẻ, tới nay chưa có một đơn vị nào hoàn thiện đầy đủ hồ sơ pháp lý đánh giá tác động môi trường để sử dụng tro, xỉ làm vật liệu san lấp. Công ty rất mong các bộ, ngành sớm ban hành các tiêu chuẩn cụ thể xúc tiến việc sử dụng tro, xỉ làm vật liệu san lấp. Qua đó, đẩy mạnh tiêu thụ tro, xỉ.
Trong khi đó, ông Phạm Viết Hùng, thành viên HĐTV Tổng Công ty Phát điện 1 (EVNGENCO1), lại cho rằng, doanh nghiệp có thể cam kết, đảm bảo đáp ứng được các yêu cầu tiêu chuẩn tro, xỉ làm vật liệu san lấp, dùng cho xi măng… Riêng về chi phí, giá mua bán tro, xỉ, trước tiên xác định đây là vật liệu địa phương có tính chất địa bàn, vận chuyển sẽ dẫn đến chi phí cao. Việc sử dụng tại chỗ hay ở một địa bàn khác nên có tính toán và đề xuất cơ quan có thẩm quyền ban hành định mức chi phí, giá thành để làm cơ sở đấu giá.
Trong khi đó, theo TS Thái Duy Sâm, Phó Chủ tịch Hội Vật liệu xây dựng Việt Nam, Nhà nước nên có cơ chế ưu đãi về thuế, hỗ trợ lãi suất để giúp doanh nghiệp đầu tư thiết bị tái chế vật liệu như tro, xỉ, phế thải xây dựng, để có giá thành thấp nhằm cạnh tranh được với cát tự nhiên…
Lựa chọn hạng mục công trình phù hợp để sử dụng tro, xỉ
Bộ Xây dựng đã kiến nghị Bộ Tài chính có quy định hạch toán đối với hàng hóa là tro, xỉ, thạch cao của các nhà máy nhiệt điện, hóa chất và phân bón để phù hợp với các quy định hiện hành; phối hợp UBND các địa phương nghiên cứu ban hành các cơ chế đặc thù hỗ trợ về cước vận chuyển đối với các công trình xây dựng nằm ở xa nguồn cung cấp. Thời gian qua, Bộ Xây dựng cũng đẩy mạnh nghiên cứu việc sử dụng tro, xỉ, thạch cao từ các nhà máy nhiệt điện, hóa chất, phân bón làm vật liệu xây dựng các công trình giao thông, thay thế cát.
Hiện việc nghiên cứu đã hoàn thành, bộ kiến nghị Bộ KH-CN công bố một số tiêu chuẩn đối với vật liệu tro, xỉ; giao cơ quan chuyên môn công bố tiêu chuẩn cơ sở, chỉ dẫn kỹ thuật để hướng dẫn các đơn vị sử dụng trong xây dựng lớp móng, mặt đường. Bộ Xây dựng cũng đã chỉ đạo các chủ đầu tư, ban quản lý dự án nghiên cứu, lựa chọn những hạng mục phù hợp sử dụng vật liệu tro, xỉ theo hướng dùng trực tiếp hoặc gia cố thêm chất kết dính.
BÍCH QUYÊN