Cần thiết xóa nợ
Theo Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng, hiện nay tiền nợ thuế không còn khả năng nộp ngân sách là 42.990 tỷ đồng, chiếm 48,7% tổng số tiền nợ thuế. Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 đã quy định đầy đủ các đối tượng được xử lý nợ (chết, mất tích, mất năng lực hành vi dân sự, giải thể, phá sản, bị thiên tai, bất khả kháng...) và các điều kiện xử lý, thẩm quyền xử lý nợ.
Tuy nhiên, Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành từ 1-7-2020, vì vậy, đối với các khoản nợ phát sinh trước ngày 1-7-2020 không được hồi tố để xử lý. Trong khi đó, Luật Quản lý thuế hiện hành quy định 3 trường hợp được xóa nợ thuế nhưng phải đáp ứng được điều kiện là phải thực hiện tuần tự các biện pháp cưỡng chế nợ và khoản nợ thuế đủ 10 năm. Hầu hết các khoản nợ hiện nay chưa đủ điều kiện 10 năm nên không được xử lý nợ.
Ngoài ra, đối với các trường hợp người nộp thuế đã chết, đã mất tích, giải thể, phá sản, ngừng bỏ hoạt động kinh doanh, thực tế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước nhưng vẫn phải tính tiền phạt và tiền chậm nộp. Số nợ này là nợ ảo, không còn khả năng thu vào ngân sách. Luật hiện hành lại không có quy định khoanh nợ.
Đối với các khoản “tiền chậm nộp” theo Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 đến nay chưa có cơ chế xử lý. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 không có điều khoản chuyển tiếp xử lý số nợ đọng này. Luật Quản lý thuế số 21/2012/QH13 cũng không có quy định miễn đối với “tiền chậm nộp”. Do đó, đối với một số khoản tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp thuộc các trường hợp gặp thiên tai bất khả kháng phát sinh tiền chậm nộp chưa được xử lý. Vì vậy, Chính phủ thấy cần báo cáo Quốc hội để có cơ chế xử lý.
Về nội dung của nghị quyết, Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng cho biết, nghị quyết này quy định về khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp (gọi chung là xử lý nợ) đối với người nộp thuế không còn khả năng nộp ngân sách nhà nước, bao gồm tiền thuế, tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp, tiền phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực thuế, hải quan phát sinh trước ngày Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14 có hiệu lực thi hành.
Đối tượng áp dụng bao gồm: người nộp thuế có tiền nợ thuế thuộc đối tượng được khoanh tiền nợ thuế, xóa tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp quy định tại nghị quyết này; cơ quan quản lý thuế, công chức quản lý thuế; cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan.
Xử lý nợ phải đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, đúng đối tượng
Bộ trưởng Bộ Tài chính Đinh Tiến Dũng nhấn mạnh, nguyên tắc xử lý nợ phải đảm bảo tuân thủ quy định pháp luật, đúng đối tượng, đúng thẩm quyền và đảm bảo điều kiện quy định hồ sơ, quy trình, thủ tục và chịu trách nhiệm của cá nhân có liên quan theo quy định của pháp luật; công khai, minh bạch việc xử lý nợ, đảm bảo việc kiểm tra, giám sát của các cơ quan có thẩm quyền, giám sát của người dân; việc xử lý nợ nhằm tạo điều kiện tháo gỡ khó khăn cho người nộp thuế, nhưng phải phòng ngừa và ngăn chặn việc lợi dụng chính sách để trục lợi và cố tình chây ỳ, nợ thuế…
Bộ trưởng Đinh Tiến Dũng cho hay, căn cứ vào tình hình thực tế nợ, quy định pháp luật hiện hành và Luật Quản lý thuế số 38/2019/QH14, Chính phủ trình Quốc hội đối tượng xử lý nợ là người nộp thuế có tiền nợ thuế (bao gồm cả tiền phạt, tiền chậm nộp) phát sinh trước ngày 1-7-2020 nhưng không có khả năng nộp ngân sách nhà nước bao gồm: người nộp thuế là người đã chết, người bị tòa án tuyên bố là đã chết, mất tích hoặc mất năng lực hành vi dân sự; người nộp thuế có quyết định giải thể gửi cơ quan quản lý thuế, cơ quan đăng ký kinh doanh để làm thủ tục giải thể hoặc cơ quan đăng ký kinh doanh đã thông báo người nộp thuế đang làm thủ tục giải thể trên hệ thống thông tin quốc gia về đăng ký doanh nghiệp nhưng người nộp thuế chưa hoàn thành thủ tục giải thể; người nộp thuế đã nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản hoặc bị người có quyền, nghĩa vụ liên quan nộp đơn yêu cầu mở thủ tục phá sản theo quy định của pháp luật về phá sản…
Chính phủ cũng trình thời gian Nghị quyết có hiệu lực thi hành kể từ ngày 1-7-2020 và được tổ chức thực hiện trong thời hạn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành. Theo chương trình kỳ họp, Quốc hội sẽ thảo luận toàn thể tại hội trường về nội dung này vào chiều ngày 1-11.
Trách nhiệm để nợ đọng thuế lớn
Thẩm tra vấn đề này, Chủ nhiệm Ủy ban Tài chính - Ngân sách Nguyễn Đức Hải cho biết, Ủy ban nhất trí về sự cần thiết ban hành nghị quyết của Quốc hội để thực hiện việc khoanh nợ tiền thuế, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với người nộp thuế không có khả năng nộp ngân sách theo đề nghị của Chính phủ.
Về quy định thực hiện từ 1-7-2020 và được thực hiện trong thời hạn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành, ông Nguyễn Đức Hải cho biết, đa số ý kiến trong Ủy ban nhất trí với dự thảo nghị quyết. Tuy nhiên, có ý kiến cho rằng, quy định về hủy quyết định xóa nợ, khoanh nợ không đúng và phải nộp vào ngân sách nhà nước khoản nợ đã được xóa không đúng không chỉ thực hiện trong thời hạn 3 năm; các khoản nợ thuế sau 3 năm mới phát hiện thuộc trường hợp được khoanh, được xóa theo quy định của Nghị quyết này thì vẫn phải được khoanh nợ, xóa nợ theo nghị quyết này.
Do đó, đề nghị không quy định nghị quyết được thực hiện trong thời hạn 3 năm kể từ ngày có hiệu lực thi hành. Trường hợp cần thiết để giải quyết dứt điểm các khoản nợ không có khả năng thu nộp ngân sách nhà nước thì đề nghị bổ sung quy định giao Chính phủ tổ chức thực hiện nghị quyết này trong 3 năm.
Trên cơ sở thẩm tra tờ trình, Ủy ban Tài chính - Ngân sách đề nghị Chính phủ đánh giá kỹ hơn về trách nhiệm chủ quan của các cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan để xảy ra tình trạng nợ đọng thuế lớn, kéo dài qua nhiều năm; báo cáo rõ việc khoanh nợ, xóa nợ tiền phạt chậm nộp, tiền chậm nộp đối với các khoản nợ liên quan đến tiền sử dụng đất, tiền thuê đất theo Nghị quyết này và có đánh giá tác động cụ thể.