Phát biểu tại diễn đàn, Phó Thủ tướng Vương Đình Huệ nhấn mạnh, tới thời điểm hiện tại, quy mô hệ thống tài chính Việt Nam vẫn còn ở mức khiêm tốn so với các nước trong khu vực; đặc biệt là khả năng cung ứng vốn còn hạn chế, chưa phát huy hết vai trò là kênh dẫn vốn của nền kinh tế, tỷ lệ vốn hóa từ các thị trường như bất động sản, chứng khoán… còn hạn chế. Cấu trúc thị trường trái phiếu mất cân bằng. Tỷ trọng nguồn vốn ngắn hạn cao trong khi tỷ trọng nguồn vốn trung và dài hạn thấp khiến nền kinh tế không đủ nguồn lực bảo đảm phát triển bền vững. Thị trường vốn vẫn phụ thuộc rất nhiều vào tín dụng ngân hàng, thị trường tín dụng phát triển thiếu tính ổn định. Hệ thống luân chuyển dòng vốn cũng chưa hiệu quả, thể hiện qua sự bất hợp lý trong việc phân bổ nguồn lực giữa các ngành kinh tế.
Theo Phó Thủ tướng, một trong những nguyên nhân chủ yếu khiến cơ cấu tài chính nội địa còn nhiều hạn chế là do khung pháp lý vẫn còn nhiều bất cập và có độ trễ so với xu hướng cũng như tốc độ tăng trưởng của thị trường tài chính. Đây là vấn đề cần trao đổi, thảo luận để tìm kiếm giải pháp căn cơ, thấu đáo.
Phó Thủ tướng mong muốn các diễn giả đánh giá "sức khỏe" các chủ thể tham gia thị trường vốn, thị trường tài chính bởi đây là điều đang khiến Chính phủ băn khoăn. Bởi lẽ, theo con số từ Tổng cục Thống kê, tính đến 31-2-2016, có đến 53% doanh nghiệp đang hoạt động ở Việt Nam không có lợi nhuận. Tỷ lệ này đã có bước tiến so với những năm trước nhưng vẫn còn thiếu khả quan. Tỷ lệ 53% doanh nghiệp không có lời phải chăng là do vốn mỏng gây nên? Nhiều doanh nghiệp hiện nay hoạt động chủ yếu dựa vào vốn ngân hàng, dự án đầu tư có vốn chủ sở hữu thấp, do đó chi phí tài chính rất cao. Vậy giải pháp sắp tới là gì?
Phó Thủ tướng cũng đề nghị các diễn giả đánh giá thực trạng phát triển thị trường vốn hiện nay và điểm nghẽn là gì? Hiện có sự mất cân đối giữa thị trường tín dụng và thị trường vốn. Trong hoạt động tín dụng lại có sự mất cân đối. Nhiều ngân hàng thương mại hoạt động dựa trên nền tảng tín dụng, các dịch vụ gia tăng khác còn thấp. “Gánh nặng huy động vốn nền kinh tế, phải chăng ngân hàng đang gánh quá sức?”, Phó Thủ tướng nói.
Theo ông Fiachra MacCanna, Giám đốc điều hành, Giám đốc bộ phận phân tích Công ty Chứng khoán TPHCM (HSC), vốn dài hạn là một trong những giải pháp cho các ngân hàng cần nâng vốn, đồng thời giúp ngân hàng thương mại cung cấp các gói vay thế chấp kỳ dài hạn hơn. Việc thiếu vốn dài hạn trong nước là thách thức với tiến trình thoái vốn của các doanh nghiệp nhà nước, thể hiện qua việc phần lớn bán vốn tại các doanh nghiệp như Tổng Công ty Bia - Rượu - Nước giải khát Sài Gòn (Sabeco) và Công ty Cổ phần Sữa Việt Nam (Vinamilk) phụ thuộc vào nhà đầu tư nước ngoài. Việc thiếu vốn dài hạn cũng dẫn tới hạn chế nguồn mua lại cổ phần nhà nước tại doanh nghiệp.
Nêu giải pháp cho vấn đề này, theo ông Fiachra MacCanna, phát triển quỹ hưu trí tư nhân là cần thiết cho việc cung cấp vốn dài hạn cho nền kinh tế bởi phần lớn đầu tư của các quỹ hưu trí tư nhân tập trung vào trái phiếu và cổ phiếu. Với thị trường vốn, chứng lưu ký không có quyền biểu quyết và cổ phần vàng sẽ là giải pháp cho nâng trần khối ngoại. Còn với thị trường trái phiếu, quỹ xếp hạng tín nhiệm là cần thiết cho việc phát triển dài hạn bởi việc phát hành trái phiếu có thể bắt buộc phải xếp hạng tín nhiệm.
Về giải pháp mở rộng thị trường vốn dài hạn cho Việt Nam trong bối cảnh hiện nay, theo ông Ketut Kusuma, chuyên gia cao cấp về thị trường vốn Ngân hàng Thế giới, là tăng cường tính minh bạch của dữ liệu, thông tin, hiện đại hóa khung pháp lý và cơ sở hạ tầng thị trường, nâng cao năng lực giám sát. Với thị trường chứng khoán, cần lồng ghép chiến lược cổ phần hóa doanh nghiệp nhà nước vào phát triển thị trường, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi nhằm minh bạch hóa hơn thông tin về phân khúc và hợp nhất thị trường. Với thị trường trái phiếu chính phủ thì cần tiếp tục công cuộc cải cách, hướng tới tham gia vào các chỉ số của thị trường mới nổi toàn cầu.
Về cơ sở nhà đầu tư trong nước, ông Ketut Kusuma cho rằng cần thúc đẩy hệ thống hưu trí tư nhân, mở rộng phạm vi đầu tư quỹ hưu trí nhà nước (Quỹ Bảo hiểm xã hội), phát triển các quỹ tương hỗ.