Khi Luật An ninh mạng có hiệu lực, một số người lo ngại rằng quyền tự do ngôn luận và một số quyền khác sẽ bị ảnh hưởng, hạn chế. Trên thực tế, các quyền cơ bản của con người (nhân quyền) đã được khẳng định và bảo vệ bằng Hiến pháp, cùng nhiều luật và bộ luật, theo xu hướng ngày càng mở rộng, chứ không thể có việc thu hẹp hay hạn chế các quyền này. Đây một mặt là xu hướng tất yếu của loài người, của tất cả các quốc gia và vùng lãnh thổ trên thế giới, mặt khác cũng là mục tiêu của Đảng và Nhà nước ta hướng đến, đang từng bước thực hiện, nhằm đáp ứng ngày càng tốt hơn các quyền và nhu cầu của công dân.
Có một quy luật tất yếu, đó là khi quyền tự do ngày càng được mở rộng thì vấn đề bảo vệ quyền tự do lại càng cần được quan tâm. Trên thực tế, quyền tự do (ở bất kỳ lĩnh vực nào) không phải là một quyền vô hạn mà luôn có những hạn định, ràng buộc, sao cho quyền tự do của người này dù được mở rộng đến đâu cũng không xâm phạm, làm tổn hại đến quyền tự do của tổ chức và cá nhân khác. Xét ở góc độ đó, Luật An ninh mạng là một trong những luật điều chỉnh vấn đề này.
Điều 8 Luật An ninh mạng quy định một số hành vi bị nghiêm cấm, chẳng hạn, tổ chức, hoạt động, câu kết, xúi giục, mua chuộc, lừa gạt, lôi kéo, đào tạo, huấn luyện người chống Nhà nước; xuyên tạc lịch sử, phủ nhận thành tựu cách mạng, phá hoại khối đại đoàn kết toàn dân tộc, xúc phạm tôn giáo, phân biệt đối xử về giới, phân biệt chủng tộc; thông tin sai sự thật gây hoang mang trong nhân dân, gây thiệt hại cho hoạt động kinh tế - xã hội, gây khó khăn cho hoạt động của cơ quan nhà nước hoặc người thi hành công vụ, xâm phạm quyền và lợi ích hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân khác; hoạt động mại dâm, tệ nạn xã hội, mua bán người; đăng tải thông tin dâm ô, đồi trụy, tội ác; phá hoại thuần phong, mỹ tục của dân tộc, đạo đức xã hội, sức khỏe của cộng đồng; xúi giục, lôi kéo, kích động người khác phạm tội; thực hiện tấn công mạng, khủng bố mạng, gián điệp mạng, tội phạm mạng… Khoản 1 Điều 18 quy định một số hành vi sẽ bị xử lý theo quy định của pháp luật, như: đăng tải, phát tán thông tin trên không gian mạng trái quy định; chiếm đoạt tài sản; tổ chức đánh bạc, đánh bạc qua mạng internet; trộm cắp cước viễn thông quốc tế trên nền internet; vi phạm bản quyền và sở hữu trí tuệ trên không gian mạng; giả mạo trang thông tin điện tử của cơ quan, tổ chức, cá nhân; làm giả, lưu hành, trộm cắp, mua bán, thu thập, trao đổi trái phép thông tin thẻ tín dụng, tài khoản ngân hàng của người khác; phát hành, cung cấp, sử dụng trái phép các phương tiện thanh toán; tuyên truyền, quảng cáo, mua bán hàng hóa, dịch vụ thuộc danh mục cấm theo quy định của pháp luật; hướng dẫn người khác thực hiện hành vi vi phạm pháp luật…
Đó đều là những hành vi bị pháp luật tất cả các quốc gia nghiêm cấm, có khác chăng là cách thức xử lý và mức độ chế tài đối với từng hành vi mà thôi. Luật An ninh mạng của nước ta đã nêu rõ các hành vi bị nghiêm cấm và cách thức xử lý các vấn đề ở môi trường không gian mạng, mà các hành vi bị nghiêm cấm đó là nhằm bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp, chính đáng của các tổ chức, cá nhân. Việc áp dụng Luật An ninh mạng sẽ góp phần tạo sự lành mạnh trong môi trường không gian mạng, góp phần tác động, thúc đẩy người sử dụng mạng xã hội có trách nhiệm hơn, ứng xử văn minh hơn, tiến bộ hơn.