Sáng 1-10, tại trụ sở Chính phủ, Thủ tướng Phạm Minh Chính chủ trì hội nghị trực tuyến Chính phủ với địa phương và phiên họp Chính phủ thường kỳ tháng 9-2022.
Cùng tham dự phiên họp tại điểm cầu trụ sở Chính phủ có các đồng chí: Phó Thủ tướng Lê Minh Khái; Phó Thủ tướng Vũ Đức Đam; Đại tướng Tô Lâm, Bộ trưởng Bộ Công an; Đại tướng Phan Văn Giang, Bộ trưởng Bộ Quốc phòng; Phó Chủ tịch nước Võ Thị Ánh Xuân; các đồng chí Bộ trưởng, Thủ trưởng cơ quan ngang bộ, cơ quan thuộc Chính phủ, lãnh đạo các bộ ngành, cơ quan Trung ương; đồng chí Đinh Văn Ân, Trợ lý Tổng Bí thư.
Theo chương trình, phiên họp tập trung thảo luận về tình hình kinh tế - xã hội tháng 9 và 9 tháng năm 2022; tình hình triển khai thực hiện Nghị quyết số 01/NQ-CP của Chính phủ; tình hình thực hiện Chương trình phục hồi và phát triển kinh tế - xã hội; tình hình giải ngân vốn đầu tư công, triển khai 3 Chương trình mục tiêu quốc gia; các nhiệm vụ, giải pháp những tháng cuối năm.
Phát biểu khai mạc, Thủ tướng Phạm Minh Chính trước hết đề cập tình hình hoàn lưu bão số 4 đã gây mưa lũ lớn, ngập lụt cục bộ, sạt lở đất tại một số địa phương khu vực miền Trung và Tây Nguyên trong những ngày qua, làm 7 người chết tại Nghệ An, nhiều tài sản của người dân và Nhà nước bị thiệt hại.
Thủ tướng cho rằng, trước cơn bão số 4 đổ bộ, chúng ta đã tích cực, chủ động chỉ đạo, thực hiện các biện pháp đề phòng, di dời dân theo tinh thần "4 tại chỗ", nhờ đó giảm thiểu thiệt hại, đặc biệt là không có thiệt hại về người.
Tuy nhiên, sau bão, một số địa phương có biểu hiện lơ là, chủ quan, mất cảnh giác, không quyết liệt, nhất là nơi có nguy cơ sạt lở, lũ ống, lũ quét. Thủ tướng yêu cầu các bộ, ngành, địa phương tập trung khắc phục hậu quả bão số 4 và chủ động ứng phó thiên tai trong thời gian tới.
Thủ tướng một lần nữa nhấn mạnh tinh thần tuyệt đối không chủ quan, lơ là, mất cảnh giác trước bão lũ, thiên tai. Các cơ quan phải bám sát tình hình, vận động, hướng dẫn người dân, có những việc phải cương quyết thì mới tránh được các sự cố, hạn chế tối đa thiệt hại, nhất là thiệt hại về người.
Thủ tướng nêu rõ, 9 tháng qua, tình hình thế giới và khu vực có nhiều biến động nhanh, khác thường, khó lường, chưa có tiền lệ; ngay như vấn đề thiên tai, bão lũ cũng bất thường, phức tạp. Tuy nhiên, 9 tháng qua, chúng ta đã hoàn thành những mục tiêu lớn đề ra: ổn định kinh tế vĩ mô, kiểm soát lạm phát, thúc đẩy tăng trưởng, bảo đảm các cân đối lớn, nâng cao đời sống vật chất, tinh thần của nhân dân; giữ vững độc lập, chủ quyền, toàn vẹn lãnh thổ; an ninh quốc phòng, ổn định chính trị, trật tự an toàn xã hội; làm tốt công tác đối ngoại, phù hợp tình hình quốc tế.
Thủ tướng đề nghị các đại biểu tập trung đánh giá tình hình tháng 9 và 9 tháng vừa qua, kết quả đạt được, tồn tại, hạn chế, nguyên nhân, nhất là nguyên nhân chủ quan, các bài học kinh nghiệm; dự báo tình hình thời gian tới trong tháng 10, những tháng cuối năm, đề xuất các nhiệm vụ, giải pháp mới để ứng phó với những vấn đề nổi lên, ngoài các nhiệm vụ, giải pháp thường xuyên đã được đề ra.
Báo cáo tại phiên họp, Bộ trưởng KH-ĐT Nguyễn Chí Dũng cho biết, trong quý 3, tăng trưởng cao đạt 13,67% so với cùng kỳ, tính chung 9 tháng tăng 8,83% cao nhất từ năm 2011 đến nay, đưa Việt Nam có tốc độ tăng trưởng cao nhất của khu vực, tăng trưởng phục hồi trên cả 3 khu vực, trong đó khu vực thương mại, du lịch phục hồi nhanh.
Kinh tế vĩ mô ổn định, lạm phát được kiểm soát, CPI bình quân 9 tháng tăng 2,73%; các cân đối lớn được bảo đảm, thu ngân sách nhà nước đạt 94% dự toán, tăng 22% so với cùng kỳ; xuất đủ nhập – tổng kim ngạch xuất nhập khẩu đạt gần 559 tỷ USD, tăng 14,2%, xuất siêu 6,52 tỷ USD. Dịch Covid-19 được kiểm soát tốt trên phạm vi toàn quốc, Việt Nam là nước đứng thứ 5 trên thế giới về tỷ lệ bao phủ tiêm vaccine phòng Covid-19.
Các tổ chức quốc tế đều đánh giá tích cực về tình hình kinh tế - xã hội của Việt Nam và dự báo lạc quan về tốc độ tăng trưởng kinh tế nước ta trong năm 2022 và 2023 thuộc nhóm cao nhất Đông Nam Á, trong đó Moody, WB, IMF, ADB dự báo tăng trưởng GDP của Việt Nam năm 2022 lần lượt là 8,5%, 7,2%, 7%, 6,5%.
Moody nâng xếp hạng tín nhiệm quốc gia dài hạn của Việt Nam từ mức Ba3 lên mức Ba2, triển vọng ổn định. Nikkei Asia xếp Việt Nam ở vị trí thứ 2 về chỉ số phục hồi sau dịch Covid-19 (Việt Nam ở vị trí 118 vào 12-2021; thứ 62 vào tháng 4-2022; thứ 14 vào tháng 5-2022 và nay là thứ 2).