Theo Báo cáo thẩm tra của Ủy ban Tư pháp do Chủ nhiệm Ủy ban Lê Thị Nga trình bày tại phiên họp, Hiệp định Đối tác Toàn diện và Tiến bộ xuyên Thái Bình Dương cùng các văn kiện có liên quan (CPTPP - sau đây gọi chung là Hiệp định) chính thức có hiệu lực đối với Việt Nam kể từ ngày 14-1-2019.
Theo cam kết thì một số quy định của Hiệp định sẽ có hiệu lực đối với Việt Nam sau 3 năm kể từ ngày Hiệp định có hiệu lực (ngày 14-1-2022), trong đó có nội dung liên quan đến yêu cầu xử lý hình sự hành vi “vi phạm bí mật kinh doanh” quy định tại Điều 18.78 của Hiệp định. Để phù hợp với yêu cầu thực hiện Hiệp định, UBTVQH đã có ý kiến về việc nghiên cứu, đề xuất giải thích một số quy định của BLHS liên quan đến hành vi vi phạm bí mật kinh doanh.
Ủy ban Tư pháp nhận thấy, để bảo đảm thực hiện hiệu quả và đúng lộ trình các cam kết của Việt Nam trong Hiệp định, bảo đảm sự phù hợp, thống nhất trong hệ thống pháp luật, bảo đảm sự rõ ràng, minh bạch để áp dụng thống nhất các quy định của BLHS, đồng thời để phù hợp với tình hình thực tế của Việt Nam thì việc UBTVQH ban hành Nghị quyết để giải thích một số điều của BLHS trong xử lý hành vi vi phạm bí mật kinh doanh là cần thiết, đúng thẩm quyền.
Cụ thể, tại khoản 2 Điều 18.78, Hiệp định yêu cầu “phải xử lý hình sự và áp dụng hình phạt đối với một hoặc các hành vi: (a) Tiếp cận một cách cố ý và trái phép tới bí mật thương mại được lưu giữ trong một hệ thống máy tính (b) Chiếm đoạt một cách cố ý và trái phép bí mật thương mại, kể cả thông qua một hệ thống máy tính; hoặc (c) Bộc lộ một cách gian lận hoặc thay vào đó, bộc lộ một cách cố ý và trái phép bí mật thương mại, kể cả thông qua một hệ thống máy tính”.
Dự thảo Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của BLHS như sau: “Hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu quy định tại khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015 được hiểu là bao gồm cả hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác chiếm đoạt dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh, kể cả đọc, nghe, ghi chép, chụp ảnh, ghi âm, ghi hình dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh”.
Ủy ban Tư pháp nhất trí với việc lựa chọn khoản 1 Điều 289 của BLHS để giải thích nhằm đáp ứng yêu cầu của Hiệp định và nhất trí với những nội dung giải thích nêu trên.
Nội dung giải thích bao gồm cả “dữ liệu có chứa bí mật kinh doanh”, vì vậy, đã đáp ứng được yêu cầu xử lý hình sự hành vi vi phạm bí mật kinh doanh của Hiệp định. Đồng thời, phương án giải thích như trên cũng đáp ứng yêu cầu về các hành vi tại khoản 2 Điều 18.78 của Hiệp định.
Bên cạnh đó, trong cấu thành cơ bản của Tội xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác (khoản 1 Điều 289 BLHS) bao gồm các hành vi kế tiếp nhau, để có thể lấy cắp được dữ liệu của người khác thì trước hết, người phạm tội phải xâm nhập được (còn được cụ thể hóa bằng các hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác trong cấu thành cơ bản tại khoản 1 Điều này) vào mạng máy tính, mạng viễn thông, phương tiện điện tử của người khác, sau đó mới thực hiện các hành vi tiếp theo gồm chiếm quyền điều khiển, hoặc can thiệp vào chức năng hoạt động của phương tiện điện tử, hoặc lấy cắp, thay đổi, hủy hoại, làm giả dữ liệu, hoặc sử dụng trái phép các dịch vụ. Do đó, việc lựa chọn “Hành vi cố ý vượt qua cảnh báo, mã truy cập, tường lửa, sử dụng quyền quản trị của người khác hoặc bằng phương thức khác xâm nhập trái phép vào mạng máy tính, mạng viễn thông hoặc phương tiện điện tử của người khác lấy cắp dữ liệu” để giải thích là phù hợp.
“Qua rà soát BLHS cho thấy, không có điều luật tương ứng nào khác phù hợp hơn để giải thích”, bà Lê Thị Nga nhận định.
Phát biểu tại phiên họp, Chủ nhiệm Ủy ban Pháp luật Hoàng Thanh Tùng hoàn toàn đồng ý với quan điểm của Ủy ban Tư pháp.
Kết luận nội dung này, Phó chủ tịch Quốc hội Nguyễn Khắc Định nêu rõ, UBTVQH nhất trí với tên gọi của Nghị quyết là: “Nghị quyết giải thích khoản 1 Điều 289 của Bộ luật Hình sự năm 2015”, nhất trí về thời điểm có hiệu lực thi hành Nghị quyết kể từ ngày 14-1-2022 cũng như việc chỉ lựa chọn giải thích 1 điều và nội dung giải thích cụ thể như trên. Nghị quyết này được áp dụng cùng với Bộ luật Hình sự số 100/2015/QH13 đã được sửa đổi, bổ sung một số điều theo Luật số 12/2017/QH14.