Theo đó, Thông tư 21/2024/TT-BYT quy định cụ thể nguyên tắc, căn cứ định giá dịch vụ khám, chữa bệnh; quy định điều kiện và hướng dẫn việc lựa chọn áp dụng phương pháp định giá khám, chữa bệnh theo 2 phương pháp là: phương pháp so sánh và phương pháp chi phí; cho phép đơn vị lập phương án giá được lựa chọn 1 trong 2 phương pháp định giá. Trường hợp áp dụng được cả 2 phương pháp định giá cùng lúc thì được ưu tiên lựa chọn phương pháp so sánh.
Đặc biệt, căn cứ Thông tư 21/2024/TT-BYT, các cơ sở khám, chữa bệnh thuộc Bộ Y tế và các bộ, ngành xây dựng hồ sơ phương án giá theo phương pháp chi phí: giữ nguyên cơ cấu giá và định mức đã ban hành, chỉ điều chỉnh yếu tố tiền lương từ mức lương cơ sở từ 1,8 triệu đồng sang mức lương cơ sở 2,34 triệu đồng.
Đến nay, Bộ Y tế đã phê duyệt giá khám chữa bệnh cho 5 bệnh viện hạng đặc biệt và khoảng 10 bệnh viện hạng I. Các địa phương đang khẩn trương triển khai thực hiện phê duyệt giá theo mức lương 2,34 triệu đồng cho cơ sở khám, chữa bệnh trên địa bàn không cao hơn mức giá cao nhất của dịch vụ tương ứng do Bộ Y tế quy định. Cấp có thẩm quyền phê duyệt giá ngày nào thì đơn vị được thực hiện thu theo mức giá mới từ ngày đó.
Về tác động điều chỉnh giá dịch vụ khám, chữa bệnh, Bộ Y tế nêu rõ, so sánh chênh lệch thu chi của quỹ BHYT hằng năm (lũy kế kết dư năm 2023), đồng thời số thu quỹ BHYT tăng do điều chỉnh mức lương cơ sở thường sớm hơn việc điều chỉnh giá dịch vụ khám, chữa bệnh nên quỹ BHYT đủ khả năng cân đối.
Về tác động với người dân, đối tượng tham gia BHYT là: người nghèo, đồng bào dân tộc thiểu số, các đối tượng chính sách xã hội được BHYT thanh toán 100% nên không bị ảnh hưởng; các đối tượng có thẻ BHYT phải đồng chi trả ở mức 20% hoặc 5% thì phần đồng chi trả tăng thêm không nhiều và có khả năng chi trả vì thu nhập của các đối tượng cũng được tăng theo tiền lương cơ sở. Đối tượng chưa có thẻ BHYT (khoảng 8% dân số) chỉ bị ảnh hưởng đến phần thanh toán theo giá dịch vụ khám, chữa bệnh.