Thế nhưng, để doanh nghiệp (DN) Việt tận dụng tốt được các lợi thế này, rất cần đến sự hỗ trợ hơn nữa của Nhà nước và sự nỗ lực vượt bậc của tự thân DN.
Ông TRẦN VIỆT ANH, Phó Chủ tịch Hiệp hội DN TPHCM: Lợi thế song hành khó khăn
Cùng với những lợi thế mà 2 hiệp định mang lại là những khó khăn không nhỏ. Trước mắt, để có thể xuất khẩu vào thị trường EU, DN phải đáp ứng rất nhiều rào cản kỹ thuật như đảm bảo truy xuất nguồn gốc xuất xứ nguyên liệu sản xuất, tiêu chuẩn khắt khe về chất lượng sản phẩm, an toàn lao động và môi trường, an toàn vệ sinh thực phẩm…
Những tiêu chuẩn này phải do những tổ chức đánh giá độc lập của EU thực hiện. Và thông thường, những tiêu chí đánh giá để được cấp đạt các chứng nhận này thường rất khó và mất rất nhiều thời gian.
Hơn nữa, mỗi 2 năm, những DN được cấp chứng nhận đạt tiêu chuẩn phải thực hiện đánh giá lại, do rào cản kỹ thuật của thị trường EU thay đổi rất nhanh và thường xuyên.
Một vấn đề khác, những lợi thế xuất khẩu vào thị trường EU cũng tạo lực hấp dẫn thu hút đầu tư nước ngoài (FDI) vào Việt Nam. Điều này sẽ gia tăng áp lực cạnh tranh tại thị trường EU cho DN thuần Việt - vốn là đối tượng chính được hưởng lợi ích từ hiệp định. Bởi DN FDI thường mạnh về tiềm lực tài chính, kinh nghiệm tiếp cận thị trường và công nghệ sản xuất.
Do vậy, để 2 hiệp định trên thực sự mang lại lợi ích chính đáng cho DN nội, các cơ quan chức năng cần kiểm soát và chọn lọc trong thu hút đầu tư.
Cụ thể, theo hướng, giảm cấp phép cho những dự án thuộc các lĩnh vực vốn đang là thế mạnh sản xuất và xuất khẩu của DN Việt và tăng thu hút đầu tư vào lĩnh vực công nghiệp phụ trợ để hoàn thiện chuỗi cung ứng nguyên liệu sản xuất; hỗ trợ hiệu quả vốn đầu tư để DN gia tăng năng lực sản xuất, đẩy mạnh xuất khẩu.
Về bản thân DN, cần chủ động chuyển đổi nhanh kết hợp nâng cao năng lực sản xuất để tận dụng lợi thế này tăng xuất khẩu vào thị trường EU.
Ông NICOLAS AUDIER, đồng Chủ tịch Hiệp hội DN châu Âu (Eurocham): Cần cải thiện môi trường kinh doanh
Để nâng cao năng lực cạnh tranh của Việt Nam nói chung và DN nói riêng, Chính phủ Việt Nam cần xem xét lại những bất cập trong chính sách thuế và chuyển giá; công nghệ thông tin và truyền thông; vận tải và hậu cần; nhân sự, đào tạo và du lịch.
Với chính sách thuế, cần phải đưa ra hướng dẫn cho các cơ quan chức năng trong việc thực hiện ưu đãi thuế cho các dự án sản xuất sản phẩm công nghiệp phụ trợ đầu tư trước năm 2015.
Ngoài ra, những quy định liên quan đến vấn đề chuyển giá cũng cần phải được điều chỉnh theo hướng tiếp cận hơn với tiêu chuẩn quốc tế, tránh đánh thuế 2 lần. Quan trọng hơn, cơ quan thuế cần minh bạch những chi phí không được khấu trừ thuế, để tránh DN bị phát sinh chi phí sản xuất hoặc bị phạt hành chính liên quan đến vấn đề này.
Vấn đề công nghệ thông tin và truyền thông, các nhà cung cấp dịch vụ, các đơn vị khai thác internet và băng thông internet quốc tế cần được phép thiết lập biểu giá riêng nhằm nâng cao khả năng cạnh tranh, đồng thời đa dạng hơn sự lựa chọn cho người sử dụng.
Mặt khác, cần có chính sách chế tài, xử phạt hoặc bồi thường trong trường hợp xảy ra sự cố internet, có gây ảnh hưởng đến các hoạt động của DN và người sử dụng. Về lâu dài, cần phát triển thêm các sản phẩm công nghệ bản địa và tăng khả năng bảo mật thông tin cá nhân của người sử dụng.
Đặc biệt, Chính phủ phải đẩy nhanh quá trình số hóa nền kinh tế và tăng khả năng ứng dụng công nghệ thông tin trong sản xuất cũng như các ngành công nghiệp khác.
Riêng với lĩnh vực vận tải và hậu cần, nhất thiết phải tập trung hoàn thiện cổng thông tin một cửa quốc gia và cơ chế một cửa ASEAN với sự hợp nhất các thủ tục của các bộ ngành. Ngoài ra, thường xuyên nâng cao năng lực của hải quan để thủ tục xuất nhập khẩu hàng hóa ngày càng đơn giản và minh bạch.
Bên cạnh đó, Chính phủ cần phải bỏ ra khoản chi phí nhất định để đầu tư cho giáo dục nguồn nhân lực và quảng bá du lịch Việt Nam để gia tăng nội lực xuất khẩu và tận dụng lợi thế phát triển trong nước.
Ông LÊ NHUNG, Giám đốc Công ty TNHH May mặc Thành Đạt: Chú trọng liên kết chuỗi cung ứng
Đây là cơ hội cho ngành dệt may của Việt Nam khi lộ trình cam kết về giảm thuế hoàn tất (phổ biến 3-7 năm - PV). Hiện chúng tôi đã lên kế hoạch liên kết các chuỗi cung ứng trong nước để sản xuất từ sợi trở đi, nhằm có thể tận dụng tất cả các lợi thế trong các hiệp định, đặc biệt là việc chứng minh quy tắc xuất xứ.
Tuy nhiên, qua tìm hiểu, chúng tôi thấy trong ngắn hạn, dệt may nói riêng và các ngành hàng khác nói chung có thể gặp bất lợi nhất định, do trong thời gian chờ thuế được giảm về 0% theo lộ trình của EVFTA, các mặt hàng xuất khẩu của Việt Nam sang EU sẽ không còn được hưởng mức thuế GSP - chế độ ưu đãi thuế quan phổ cập, mà phải chuyển sang chịu mức thuế MFN - nguyên tắc tối huệ quốc cao hơn.
Đối với ngành dệt may, để có thể được giảm thuế theo quy định tại hiệp định, các sản phẩm phải tuân thủ chặt chẽ các quy tắc về xuất xứ, thỏa mãn 2 điều kiện: vải sử dụng để tạo ra thành phẩm phải có xuất xứ từ Việt Nam hoặc EU; việc cắt may phải được thực hiện tại Việt Nam hoặc EU.
Trong khi đó, phần lớn các DN Việt Nam vẫn đang chỉ thực hiện công đoạn may cắt chứ chưa sản xuất vải và sợi. Do vậy, để có thể tối đa hóa lợi ích thu được từ 2 hiệp định này, Chính phủ và các bộ ngành cần chú trọng hỗ trợ phát triển ngành công nghiệp dệt và công nghiệp phụ trợ ngành dệt may, nhằm cung cấp nguyên vật liệu cho các doanh nghiệp may, cắt.
Ông NGUYỄN NGỌC MINH THY, Tổng Giám đốc Tổng công ty Liksin: Tạo lợi thế cạnh tranh cho DN Việt
Với tình hình phần lớn nguyên vật liệu chính cho ngành giấy và bao bì đến từ nguồn nhập khẩu, trong đó một phần không nhỏ đến từ các nước EU, thì đây là tin mừng lớn để tạo lợi thế cạnh tranh cho DN Việt.
Các DN trong nước sẽ có cơ hội được tiếp nhận trực tiếp nguồn vốn đầu tư từ nước ngoài, kèm theo không những là sự chuyển giao về mặt công nghệ mà còn là sự đầu tư về nhân lực, về việc quản lý tài sản trí tuệ, môi trường…
Tuy nhiên, EVFTA cũng đem đến không ít thách thức. Bởi đây là một sân chơi lớn, đòi hỏi người chơi cần có trình độ và tầm nhìn. Trong hoàn cảnh phần lớn các DN ngành giấy và bao bì là DN vừa và nhỏ với năng lực cạnh tranh chưa cao, các thách thức đặt ra là khả năng sản xuất sản phẩm đáp ứng các tiêu chuẩn của EU như yêu cầu về minh bạch hóa nguồn gốc sản phẩm, các yêu cầu chất lượng về sự bền vững và bảo vệ môi trường...
Sự tự do hóa toàn cầu sẽ đem đến các đối thủ lớn, tạo sức ép cạnh tranh ngay trên thị trường nội địa, nếu như trước đây DN Việt có ưu thế “nhỉnh” hơn so với DN nước ngoài thì nay họ phải tham gia vào một sân chơi phẳng, cạnh tranh công bằng.
Do vậy, trước mắt cần thông tin cụ thể và giúp các DN nắm rõ, sớm các thông tin liên quan đến EVFTA, nhằm chuẩn bị chiến lược cũng như tạo sự chủ động trong cuộc đua; hỗ trợ tạo các cơ sở pháp lý rõ ràng, minh bạch... thúc đẩy các cam kết của hiệp định sớm được thực thi.
Các thủ tục liên quan đến nhập khẩu nguyên vật liệu ngành giấy và bao bì cần được đơn giản hóa, nhằm tạo nhiều thuận lợi tận dụng cơ hội này. Có chương trình hỗ trợ DN giấy và bao bì Việt Nam trong việc tự nâng cao năng lực, đẩy mạnh đổi mới công nghệ, ứng dụng internet vạn vật (IoT), chuyển đổi số theo cách mạng công nghiệp 4.0 để tham gia sân chơi toàn cầu.
Khuyến khích và tạo điều kiện cho các DN trong việc đào tạo nhân viên đủ kiến thức, kỹ năng, thái độ và ngoại ngữ để làm việc với các đối tác từ EU.
Những mặt hàng chủ lực của Việt Nam có giá trị kim ngạch xuất khẩu cao vào EU là: điện thoại, linh kiện (14,36 tỷ USD); hàng dệt may (4,23 tỷ USD); giày dép (4,4 tỷ USD), thủy sản (1,57 tỷ USD); cà phê (1,53 tỷ USD)... Hiện EU là thị trường có tổng dân số hơn 500 triệu người. Mức thu nhập bình quân đầu người ở thị trường này đạt xấp xỉ 41.000 USD/người/năm. Đây cũng là thị trường có tổng sản phẩm quốc nội (GDP) đạt 15.000 tỷ USD, chiếm 22% GDP toàn cầu. |