Tận dụng hiệp định thương mại tự do để tăng xuất khẩu

Ngày 18-11, tại TPHCM Bộ Công thương đã tổ chức Hội nghị “Xuất khẩu vào các thị trường FTA - Giải bài toán phát triển bền vững”. Nhiều doanh nghiệp (DN) xuất khẩu thuộc nhiều lĩnh vực, ngành hàng các tỉnh, thành phía Nam đã nêu những khó khăn cần tháo gỡ khi thâm nhập thị trường xuất khẩu. 
Sản xuất thủy sản tại Công ty CP Kinh doanh thủy sản Sài Gòn. Ảnh: HOÀNG HÙNG
Sản xuất thủy sản tại Công ty CP Kinh doanh thủy sản Sài Gòn. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Nhiều ngành tăng trưởng 2 con số 

Theo Bộ Công thương, Việt Nam đã và đang tham gia đàm phán, ký kết 17 hiệp định thương mại tự do (FTA), trong đó 3 FTA thế hệ mới là Hiệp định Đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - EU (EVFTA); Hiệp định Thương mại tự do Việt Nam - Vương quốc Anh (UKVFTA). Hiện các FTA thực thi có tác động mạnh mẽ tới phát triển kinh tế cũng như xuất khẩu hàng hóa của Việt Nam. 

Chẳng hạn, với Hiệp định CPTPP, sau 3 năm thực thi, kim ngạch xuất khẩu năm 2021 tăng 18,1% so với năm 2020; trong 10 tháng đầu năm 2022 đã tăng 21,1% so với cùng kỳ năm 2021. Hay với Hiệp định EVFTA, tỷ lệ tăng cũng lần lượt 14,2% và 23,5%. Lý giải về kết quả này, bà Tô Thị Tường An, Phó Tổng Thư ký Hiệp hội Chế biến và Xuất khẩu thủy sản, cho rằng, DN Việt đã nhanh, nhạy khi nhận diện khá tốt về lợi thế của từng ngành hàng phù hợp với từng thị trường xuất khẩu. 

Cụ thể, với ngành thủy sản, các DN đã đáp ứng tốt, phù hợp với tiêu chuẩn kỹ thuật khắt khe của nhiều thị trường như Hoa Kỳ, châu Âu, Nhật Bản… Minh chứng rõ nhất là kim ngạch xuất khẩu của ngành thủy sản liên tục tăng cao tại thị trường Nhật Bản (tăng 33%), Canada (tăng 67%), Mexico (tăng 59%)... so với cùng kỳ năm trước. Tính chung, kim ngạch xuất khẩu thủy sản tại 10 nước thành viên CPTPP đều duy trì tăng trưởng ở mức 2 con số. 

Với ngành chế biến lương thực thực phẩm, Hiệp định CPTPP cũng đã mở toang hàng rào thuế quan để hàng hóa Việt Nam vào các thị trường này. Nhờ vậy, mức tăng trưởng kim ngạch xuất khẩu của ngành cũng duy trì mức 2 con số, bất chấp những diễn biến khó khăn từ dịch Covid-19, làm đứt gãy chuỗi logistics, giá vận chuyển và nguyên liệu tăng cao trong 2 năm lại đây. 

Nguồn vốn là yếu tố sống còn

Trên thực tế, DN Việt Nam so với nhiều DN trên thế giới “non về tuổi đời” và “yếu về tầm vóc”. Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ, cho biết, trong thời gian tới, DN xuất khẩu sẽ phải đối mặt với hàng loạt rào cản kỹ thuật mới. Đơn cử, EU ngày càng đòi hỏi các quy trình sản xuất sạch hơn với lượng phát thải CO2 ít hơn. Tới năm 2026, các nhà nhập khẩu EU sẽ công bố sản lượng nhập khẩu cùng lượng khí thải tương ứng của năm trước đó, song song với các chứng chỉ CBAM (Cơ chế điều chỉnh biên giới carbon). Để đáp ứng yêu cầu này, DN phải chuyển đổi theo hướng xanh hóa sản xuất, đáp ứng đa dạng tiêu chuẩn của từng thị trường xuất khẩu. Bởi đây là lối đi duy nhất nếu DN không muốn bị loại khỏi sân chơi chung.

Tận dụng hiệp định thương mại tự do để tăng xuất khẩu ảnh 1 Sản xuất thủy sản tại Công ty CP Kinh doanh thủy sản Sài Gòn. Ảnh: HOÀNG HÙNG

Ngày 18-11, tại Hà Nội, Bộ Công thương tổ chức tọa đàm “Tăng sự hiện diện của DN Việt Nam xuất khẩu sang EU”. Sau hơn 2 năm Hiệp định EVFTA chính thức có hiệu lực, EU trở thành thị trường xuất khẩu lớn thứ 3 của Việt Nam. Tổng kim ngạch xuất khẩu của Việt Nam sang EU từ tháng 8-2020 đến tháng 7-2022 đạt 83,4 tỷ USD - cao hơn 24% trung bình năm của giai đoạn 2016-2019. 

Tuy nhiên, ông Ngô Chung Khanh, Phó Vụ trưởng Vụ Chính sách thương mại đa biên (Bộ Công thương), cho biết, dư địa của thị trường EU rất lớn với giá trị nhập khẩu lên tới 2.500 tỷ USD mỗi năm, nhưng hàng hóa Việt Nam mới chỉ chiếm chưa đầy 2% thị phần của thị trường này. Ngay cả những mặt hàng chiến lược như thủy sản, rau quả cũng chỉ có thị phần rất thấp (rau quả chiếm hơn 2%-3%, thủy sản hơn 4%, kể cả may mặc cũng chỉ 4%)…

                                                    VĂN PHÚC

FTA tạo ra những thuận lợi về thuế quan. Tuy nhiên, vướng mắc lớn nhất của DN Việt chính là hàng rào kỹ thuật. Theo đó, nhóm hàng nông sản vào thị trường Hoa Kỳ phải có nhà máy đóng gói, vùng trồng do nước này cấp chứng chỉ. Hay sản phẩm muốn vào thị trường EU phải đạt hơn 30 tiêu chuẩn kỹ thuật, đồng thời có chứng nhận trách nhiệm xã hội, nhà máy đạt chuẩn ISO, HACCP… Các tiêu chuẩn này cũng thường xuyên thay đổi, đòi hỏi DN phải thực sự mạnh về vốn và hiện đại về công nghệ mới có khả năng “trở mình” để đáp ứng kịp thời. 

Trước bối cảnh chung đó, nhiều đại diện DN đã chia sẻ những giải pháp để thích ứng. Theo ông Trần Quốc Mạnh, Chủ tịch HĐQT Công ty CP Phát triển sản xuất Thương mại Sài Gòn (SADACO), yếu tố vốn là sống còn với DN hiện nay. Nếu tình trạng siết room tín dụng vẫn “đánh đồng” với tất cả DN thì DN sản xuất không đủ vốn cho hoạt động cũng như đổi mới quy trình sản xuất. “Hiện nhiều DN chế biến lương thực thực phẩm đã phải từ chối nhiều đơn hàng xuất khẩu lớn do thiếu vốn để nhập khẩu nguyên liệu sản xuất”, đại diện Hội Lương thực, Thực phẩm TPHCM nêu thực tế. 

Về nội tại, sản phẩm Việt chưa có thương hiệu, thiếu các cơ hội tiếp cận thị trường nên chưa đủ khả năng làm thay đổi thói quen lựa chọn của người tiêu dùng thế giới. Để khắc phục tình trạng này, cần tăng cường xúc tiến thương mại cho các DN trong nước để thay đổi cách nhìn của người tiêu dùng thế giới với hàng Việt. Bên cạnh đó, nhiều ý kiến DN cho rằng, cần thúc đẩy phát triển ngành sản xuất sản phẩm hỗ trợ, nhất là lĩnh vực bao bì, thiết kế in ấn, khay đựng… để giúp DN xuất khẩu không bị mất đơn hàng vì lý do không đạt chuẩn đóng gói.

Bà Nguyễn Thảo Hiền, Phó Vụ trưởng Vụ Thị trường châu Âu - châu Mỹ:


Đa dạng hóa thị trường, xanh hóa sản xuất

Để có thể gia tăng kim ngạch xuất khẩu vào mạng lưới thị trường FTA, DN nên đẩy mạnh đa dạng hóa thị trường, gia tăng các sản phẩm trên các thị trường ngách, có lợi thế cạnh tranh. Song song đó, tiếp cận thêm các thị trường mới thông qua các chuỗi siêu thị và các cửa hàng bán lẻ ở các quốc gia khác nhau tại châu Âu…

Trong sản xuất, ngoài việc chủ động kiểm soát, nâng cao chất lượng sản phẩm, đảm bảo tuân thủ chặt chẽ tiêu chuẩn và quy định nhập khẩu của EU, DN cần đặc biệt chú trọng truy xuất nguồn gốc, đáp ứng quy tắc xuất xứ để được hưởng các ưu đãi từ Hiệp định EVFTA. Ngoài ra, cần nghiên cứu đẩy mạnh ứng dụng khoa học - công nghệ, các quy chuẩn thực hành tốt trong sản xuất, tăng cường chế biến sâu để gia tăng giá trị sản phẩm và sức cạnh tranh. Nỗ lực xanh hóa sản xuất, thực hiện các trách nhiệm xã hội, bảo vệ môi trường cần được chú trọng hơn nữa.


Ông Jean - Jacques Bouflet, Phó Chủ tịch EuroCham:


Nâng cao chất lượng hàng hóa để tiệm cận thế giới

Để hàng hóa Việt Nam xuất khẩu sang EU hưởng được lợi thế ưu đãi thuế quan, cần 2 điều kiện: Thứ nhất, hàng hóa phải đáp ứng tiêu chuẩn thị trường yêu cầu mà cụ thể là các biện pháp vệ sinh dịch tễ (SPS ) và rào cản kỹ thuật (TBT) liên quan đến sản phẩm. Thứ hai, sản phẩm phải đáp ứng các quy tắc xuất xứ. Các nhóm hàng hóa có tần suất áp dụng SPS và TBT nhiều nhất khi nhập khẩu vào EU là rau quả, thực phẩm chế biến, dệt may, đồ da, hóa chất, giày dép, sản phẩm nhựa… và đây cũng là các mặt hàng xuất khẩu chủ lực của Việt Nam.

DN Việt cần tăng cường nhận biết các thay đổi quy định của EU; phải đầu tư cả về chiều sâu và chiều rộng, đảm bảo kiểm soát chặt chẽ chất lượng sản phẩm và toàn bộ quy trình sản xuất, chứ không chỉ ở chặng cuối mới có thể vượt qua thách thức về các biện pháp SPS và TBT. DN Việt cũng cần hướng đến các chuẩn EU để thiết kế quy trình sản xuất, chế biến, nuôi trồng sản phẩm. 

Cần tăng cường các biện pháp chống gian lận xuất xứ hàng hóa. Việc giả mạo xuất xứ Việt Nam, chuyển tải bất hợp pháp để xuất khẩu sẽ tăng nguy cơ EU áp dụng các hàng rào thuế quan TBT và SPS khẩn cấp và các biện pháp phòng vệ thương mại đối với hàng hóa Việt Nam. Việc ngăn chặn, xử lý các hành vi gian lận xuất xứ đòi hỏi sự tham gia, chung tay của nhiều bộ, ngành, đặc biệt là của cộng đồng DN.

Tin cùng chuyên mục