Đề án 47 là một đề án lớn, mang tính tổng thể, toàn diện về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển với sự tham gia triển khai của nhiều bộ, ngành.
Phát biểu tại Hội nghị, Bộ trưởng Trần Hồng Hà cho biết, các chỉ tiêu tổng hợp về quản trị biển và đại dương, quản lý vùng bờ theo chuẩn mực quốc tế đạt mức nhóm nước trung bình cao trở lên trên thế giới. Các ngành kinh tế thuần biển đóng góp 10% GDP cả nước, kinh tế của 28 tỉnh, thành phố ven biển ước đạt 65-70% GDP. Chỉ số phát triển con người các tỉnh, thành phố ven biển của Việt Nam cao hơn mức trung bình cả nước, thu nhập bình quân đầu người ven biển gấp từ 1,2 lần trở lên so với thu nhập bình quân cả nước; tiếp cận, tận dụng tối đa thành tựu khoa học, công nghệ tiên tiến và thuộc nhóm nước dẫn đầu trong ASEAN, có một số lĩnh vực khoa học và công nghệ biển đạt trình độ tiên tiến, hiện đại trên thế giới…
Ông Tạ Đình Thi, Tổng cục trưởng Tổng cục Biển và Hải đảo Việt Nam cũng cho biết, đến hết năm 2018, Việt Nam đã thành lập hải đồ tỷ lệ 1:200.000 với khoảng 53% diện tích các vùng biển Việt Nam; hoàn thành điều tra địa hình đáy biển khoảng 24,5% diện tích vùng biển Việt Nam ở các tỷ lệ từ 1:500.000 đến 1:50.000; cơ bản làm chủ công nghệ tìm kiếm, thăm dò dầu khí trên biển.
Nhiều kết quả của các dự án đã được chuyển giao vào thực tiễn và đang góp phần thiết thực vào sự nghiệp phát triển kinh tế - xã hội, bảo đảm quốc phòng, an ninh các vùng biển và ven biển.
Thời gian tới, Chương trình trọng điểm điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo sẽ tập trung xây dựng và triển khai theo các mục tiêu như: điều tra, đánh giá điều kiện tự nhiên, tài nguyên biển và hải đảo (địa chất, địa hình, địa mạo, khí tượng, hải văn, tài nguyên…) với 50% diện tích vùng biển VIệt Nam được điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ 1:500.000 và điều tra ở tỷ lệ lớn một số khu vực trọng điểm; đánh giá được hiện trạng, rủi ro môi trường và hệ sinh thái biển và hải đảo; thành lập được bản đồ phân vùng rủi ro ô nhiễm và sức chịu tải của hệ sinh thái, tài nguyên, môi trường biển ở tỷ lệ tối thiểu 1:500.000 khu vực biển ven bờ đến độ sâu 100m nước. Đặc biệt, sẽ xác định được những khu vực biển thuận lợi cho nhận chìm biển đối với các vật liệu khác nhau.
Bên cạnh đó, sẽ tăng cường công tác quản lý nhà nước và năng lực điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển và hải đảo: cơ bản hoàn thiện hệ thống chính sách, pháp luật, bảo đảm nguồn lực phục vụ công tác điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển; có được cơ chế phối hợp giữa các bộ, ngành và các địa phương có biển trong việc khai thác, chia sẻ và sử dụng có hiệu quả nguồn nhân lực, phương tiện, trang thiết bị, dữ liệu về điều tra cơ bản tài nguyên, môi trường biển… Thiết lập được hệ thống dự báo, cảnh báo, môi trường, phòng chống thiên tai đồng bộ, hiệu quả, thành lập đội tàu nghiên cứu biển với các trang thiết bị đồng bộ, hiện đại thuộc nhóm dẫn đầu khu vực Đông Nam Á; thiết lập được bộ cơ sở dữ liệu số hóa về biển và hải đảo, bảo đảm tính tích hợp, chia sẻ và cập nhật… cũng là những mục tiêu đã được nêu rõ.