Sáu nhóm chính sách mới về dầu khí

Số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh (từ năm 2015 đến năm 2019 mỗi năm chỉ có 1 hợp đồng dầu khí được ký; năm 2020 và năm 2021 không có hợp đồng nào).

 

Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam đang đối diện rất nhiều khó khăn, thách thức mới
Hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam đang đối diện rất nhiều khó khăn, thách thức mới

Phát biểu khai mạc phiên họp toàn thể của Ủy ban Kinh tế sáng nay 31-3 để thẩm tra Dự án Luật Dầu khí (sửa đổi), Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế Vũ Hồng Thanh nêu sự cần thiết phải sửa đổi toàn diện dự án Luật Dầu khí, trong bối cảnh xuất hiện nhiều khó khăn mới: số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh. Thêm vào đó, xung đột Nga - Ukraine khiến cho giá dầu hết sức phức tạp, tiềm ẩn khá nhiều rủi ro...

“Bối cảnh mới đòi hỏi có cách nhìn mới, tạo ra cơ chế chính sách đồng bộ, tăng cường phân cấp phân định trách nhiệm, tăng cường quản lý nhà nước và tạo điều kiện thuận lợi cho các nhà đầu tư”, ông Vũ Hồng Thanh nhấn mạnh.

Sáu nhóm chính sách mới về dầu khí ảnh 1  Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân 
Về dự án Luật, Thứ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Sinh Nhật Tân một lần nữa khẳng định, tình hình quốc tế và trong nước có nhiều thay đổi, tác động lớn đến sự phát triển của ngành dầu khí. Đặc biệt là tình hình Biển Đông tiếp tục diễn biến phức tạp, căng thẳng và mất ổn định hơn, đưa đến nhiều khó khăn, thách thức mới đối với hoạt động tìm kiếm, thăm dò và khai thác dầu khí của Việt Nam. Số lượng hợp đồng dầu khí mới được ký kết gần đây giảm mạnh (từ năm 2015 đến năm 2019 mỗi năm chỉ có 1 hợp đồng dầu khí được ký; năm 2020 và năm 2021 không có hợp đồng nào).
Nguyên nhân khách quan là các phát hiện mới ở Việt Nam trong thời gian qua phần lớn có trữ lượng nhỏ, các diện tích mở còn lại đều được đánh giá có tiềm năng ở mức hạn chế, chủ yếu là khí, tập trung ở khu vực thuộc đối tượng của chính sách khuyến khích đầu tư theo quy định của Luật Dầu khí.

Bởi vậy, việc đánh giá đúng hiện trạng của các điều khoản kinh tế - thương mại của hợp đồng dầu khí và hệ thống các văn bản pháp lý so với các nước trong khu vực là hết sức cần thiết để xây dựng được chính sách ưu đãi đầu tư phù hợp với bối cảnh hiện nay, tạo ra lợi thế cạnh tranh cho lĩnh vực hoạt động dầu khí của Việt Nam so với các nước khác trong khu vực.

Với mục tiêu tăng cường hiệu quả, hiệu lực trong quản lý nhà nước, loại bỏ rào cản, tạo hành lang pháp lý thuận lợi cho nhà đầu tư, góp phần cải thiện mức độ hấp dẫn của môi trường đầu tư trong lĩnh vực này, Luật Dầu khí (sửa đổi) gồm 9 chương, 56 điều kế thừa các điều khoản cơ bản của của Luật Dầu khí hiện hành, bảo đảm tính ổn định, liên tục của các Hợp đồng dầu khí, Hiệp định đã ký kết (đang có hiệu lực). Việc sửa đổi này sẽ giải quyết 6 nhóm chính sách.

Thứ nhất, bổ sung và hoàn thiện các quy định liên quan đến hợp đồng dầu khí.

Thứ hai, quy định về điều tra cơ bản và dầu khí và trình tự, phê duyệt các bước triển khai hoạt động dầu khí, dự án dầu khí gồm các giai đoạn tìm kiếm thăm dò và khai thác dầu khí phù hợp với đặc thù của hoạt động dầu khí (mà pháp luật về đầu tư chưa có quy định) và đặc thù của PVN/doanh nghiệp 100% vốn của PVN.

Thứ ba, quy định khung cho việc thực hiện dự án dầu khí theo chuỗi từ tìm kiếm thăm dò, khai thác, vận chuyển, xử lý, chế biến dầu khí.

Thứ tư, là nhóm chính sách về ưu đãi đầu tư và ưu đãi đầu tư đặc biệt đối với dự án dầu khí theo lô dầu khí thông qua hợp đồng dầu khí (bao gồm các chính sách ưu đãi thuế, thu hồi chi phí).

Thứ năm, là chính sách quy định về công tác kế toán, kiểm toán, quyết toán và xử lý chi phí trong hoạt động dầu khí, bổ sung quy định nguyên tắc về công tác kế toán, kiểm toán đối với hoạt động dầu khí, cụ thể: công tác kế toán, kiểm toán đối với hợp đồng dầu khí tuân thủ với pháp luật kế toán, kiểm toán Việt Nam và phù hợp với thông lệ công nghiệp dầu khí quốc tế.

Thứ sáu, quy định khung về việc cho phép bên thứ ba tiếp cận các cơ sở hạ tầng có sẵn của ngành dầu khí và nghĩa vụ chia sẻ công trình dầu khí, cơ sở hạ tầng sẵn có nhằm sử dụng tối ưu, hiệu quả hệ thống hạ tầng cơ sở sẵn có, tránh lãng phí trong đầu tư.

Tin cùng chuyên mục