PHÓNG VIÊN: Thưa Bộ trưởng, chính sách phát triển lực lượng DNCN có gì khác so với những chính sách quốc gia đã phê duyệt trước đây, như chính sách phát triển DN khoa học - công nghệ (KH-CN) do Bộ KH-CN đang thực hiện?
Bộ trưởng NGUYỄN MẠNH HÙNG: Khi nhắc đến KH-CN nói chung, chúng ta hơi thiên về nghiên cứu cơ bản. Vì vậy, DN KH-CN cũng được hiểu là DN có nghiên cứu cơ bản, làm chủ rồi chuyển giao, thương mại hóa sản phẩm KH-CN. Còn DNCN ở đây, chủ yếu là đề cập đến trong lĩnh vực Công nghệ thông tin và truyền thông (ICT). Tức là DN sử dụng ICT để đưa công nghệ vào cuộc sống, vào các DN khác, đưa công nghệ vào xã hội - y tế - giáo dục, vào hoạt động Chính phủ…
DN ICT có nhiệm vụ áp dụng công nghệ để giải quyết những bài toán đang tồn tại trong từng lĩnh vực, hoặc đôi khi chỉ là thay đổi cách mình đang vận hành, khiến những việc cũ làm theo cách mới một cách hiệu quả hơn. Quá trình vận dụng công nghệ đó dù ở quy mô nào cũng nhằm tăng năng suất lao động, thoát bẫy thu nhập trung bình và tiến tới mục tiêu lớn hơn là sáng tạo ra công nghệ Việt Nam. Ngành ICT hiện có khoảng gần 50.000 DN và mục tiêu 5 năm nữa con số này là 100.000 và trong số này sẽ có những DNCN lớn lên, trở thành công ty toàn cầu.
Để phát triển cộng đồng DNCN, chúng ta cần có cơ chế, chính sách gì để ủng hộ họ, thưa Bộ trưởng?
Diễn đàn quốc gia phát triển DNCN vừa qua là bước đầu hành động để hình thành chiến lược quốc gia phát triển cộng đồng DNCN Việt Nam. Trong diễn đàn, chúng ta dùng khái niệm “Make in Vietnam” để truyền tải nội hàm của phát triển DNCN Việt Nam. Đó là những sản phẩm công nghệ được sáng tạo, thiết kế, làm ra tại Việt Nam. Những kiến nghị, đề xuất, kinh nghiệm nêu ra tại diễn đàn sẽ được nghiên cứu để xây chiến lược quốc gia phát triển DNCN Việt Nam.
Từ trước đến nay cứ nói phát triển thì bao giờ cũng hỏi Nhà nước ủng hộ gì? Có chính sách gì ưu đãi?... Thế nhưng, đối diện khó khăn, thách thức và vượt qua thì mới phát triển được, còn trong nhiều trường hợp, ưu ái có thể dẫn đến thất bại. Để phát triển DNCN, câu chuyện không phải chỉ là giảm thuế, cho đất, cấp vốn. Những đề xuất của chúng tôi mang tính dài hạn hơn, đó là Chính phủ, các bộ, ngành cần nâng cao hơn các tiêu chuẩn đối với sản phẩm Việt Nam. Đấy là biện pháp giúp hình thành DNCN nội địa, nâng cao năng lực cạnh tranh, buộc họ luôn phải đổi mới. Bên cạnh đó, Bộ TT-TT cũng kiến nghị không hỗ trợ DN nữa mà nên giao cho họ việc khó, để trưởng thành nhanh hơn. Khi Chính phủ, các bộ, ngành đặt hàng, giao việc cho DNCN giải quyết, chính là cơ hội để họ phát triển.
Diễn đàn chỉ là bước đầu tiên, không thể kỳ vọng về một bước ngoặt ngay tức thì. Diễn đàn tương tự như một “phát súng” gợi cảm hứng cho sự thay đổi trong nhận thức từ cộng đồng DN lẫn cơ quan nhà nước để từ đó hình thành chiến lược.
Theo Bộ trưởng, những DNCN như thế nào sẽ nằm trong chiến lược “Make in Vietnam” này?
Để thực sự “Make in Vietnam”, Việt Nam cần có sự đóng góp của 3 nhóm DNCN với vai trò khác nhau. Một là nhóm startup, tạo ra những công nghệ, sản phẩm giải pháp mới mẻ, hữu dụng và nếu thành công thì có thể mang tính toàn cầu. Nhóm thứ hai là DN khởi nghiệp bằng công nghệ. Họ dùng công nghệ có sẵn, vận dụng để phát triển sản phẩm, tạo ra giải pháp cho đơn vị khác. Ví dụ có những DN mang công nghệ của thế giới về Việt Nam để tư vấn, triển khai giúp những người nuôi tôm, trồng rau có thể áp dụng được. Nhóm thứ ba là những DNCN lớn, được chia làm 2 nhánh. Nhánh thứ nhất là những tên tuổi lớn, từ lâu trong lĩnh vực công nghệ như: Tập đoàn FPT, VNG, CMC... Nhánh thứ hai là những DN trưởng thành từ thương mại, dịch vụ, bất động sản, viễn thông như Vingroup, Viettel... và đang có hướng chuyển mình. Họ vốn làm ngành khác và nay có vốn, kinh nghiệm quản trị nên đầu tư tiền nghiên cứu phát triển công nghệ. Việt Nam cần những DN như vậy để cạnh tranh tầm quốc tế.
Nhìn vào thực tế, những DN startup với vài ba người mới ra trường thì rất khó để cạnh tranh với thế giới. Họ có thể tạo nên một DN làm ăn tốt, bán được vài chục hoặc hàng trăm triệu USD, tuy nhiên, nếu để đầu tư sản xuất một thiết bị viễn thông vài nghìn tỷ đồng trong nhiều năm là điều không khả thi. Song những DN lớn như đã đề cập ở trên lại có thể làm được điều đó. Hiện nay, chính nước Mỹ không sản xuất thiết bị viễn thông mà điều này DN Việt lại đang làm được. Đó cũng chính là những cơ hội cho Việt Nam.
Một số quan điểm cho rằng, Việt Nam chưa sẵn sàng đón nhận những mô hình mới về công nghệ. Bộ trưởng nghĩ sao về vấn đề này?
Khi có một mô hình mới được sinh ra thì thường bị đa số phản đối, bởi mâu thuẫn với cái cũ. Câu chuyện của Grab và taxi truyền thống là ví dụ điển hình. Tuy nhiên, tôi cho rằng, đến giờ phút này, Việt Nam đã cho thí điểm mô hình Grab và đó là một điểm rất tích cực. Gần đây, chúng ta cũng có một mô hình mới là sandbox (khung pháp lý thử nghiệm với những mô hình mới). Ở đó, những mô hình mới, chưa biết quản lý như thế nào sẽ được cho thí điểm trong một không gian, thời gian nhất định để đánh giá. Đầu năm 2019, Chính phủ cũng đã đồng ý về nguyên tắc cho thí điểm sử dụng tài khoản viễn thông để thanh toán hàng hóa có giá trị nhỏ dù thanh toán điện tử bằng tài khoản điện thoại (Mobile Money) có thể “động chạm” đến toàn bộ hệ thống ngân hàng. Đây là những thí điểm không phải nước nào cũng dám làm. Chấp nhận những cái mới là cuộc đấu tranh rất quyết liệt vì không phải ai cũng muốn. Chính phủ Việt Nam hiện nay đã sẵn sàng cho thử nghiệm những cái mới như: fintech (công nghệ tài chính), taxi công nghệ, thậm chí tiến tới chính sách sandbox. Đó là những điều không dễ dàng thực hiện chút nào và cho thấy Chính phủ Việt Nam không hề bảo thủ.
Nhiều ý kiến, nhất là từ cộng đồng DN cho rằng, trình độ nhân lực ngành công nghệ ở Việt Nam còn thấp. Bộ trưởng đánh giá như thế nào về vấn đề này?
Làm thế nào để tạo ra người giỏi? Câu trả lời là phải tạo ra việc làm thôi. Bây giờ mà lại nói đến chuyện đổi mới giáo dục thì mất 30 năm nữa, vì còn phải xây trường đẳng cấp quốc tế, dạy dỗ các thế hệ sau mất tầm 20 năm… Chẳng lẽ đợi đến khi đó Việt Nam mới phát triển được? Vì vậy, tôi cho rằng, công việc sẽ tạo ra nhân lực. Với nguồn nhân lực hiện nay, muốn họ giỏi lên thì nên đào tạo theo phương pháp reskill và upskill (đào tạo lại và nâng cao trình độ). Tôi cho rằng, phương án tạo ra nhiều việc làm có yêu cầu trình độ là phương án khả thi cho việc tăng trình độ nhân lực. Một nguồn lực nhân lực ý nghĩa nữa là cộng đồng người Việt Nam ở nước ngoài với gần 5 triệu người. Trong đó, rất nhiều người thành đạt về công nghệ và lập nghiệp thành công ở nước ngoài, có kinh nghiệm, quan hệ quốc tế... Bộ TT-TT sẽ thuyết phục để thu hút họ về lập nghiệp hoặc tham gia vào các DNCN ở Việt Nam.
Xin cảm ơn ông.