I
Anh hùng LLVT Nguyễn Văn Tàu (Tư Cang) - người chỉ huy cụm tình báo chiến lược A.18 - H.63 luôn mang nặng trong lòng món nợ với những người phụ nữ làm công tác liên lạc đã mưu trí, dũng cảm, vượt qua muôn vàn khó khăn, nghiệt ngã và lặng lẽ hy sinh cho sự an toàn của mạng lưới tình báo. Ông gọi lực lượng đặc biệt ấy là những nữ giao thông mật.
Ông nói thêm: “Cũng như là giao liên bên biệt động. Đội ngũ này linh hoạt lắm, đảm nhận một đường dây bí mật trải dài đến mọi miền đất nước. Hồi còn nằm ở Củ Chi điều khiển đường dây liên lạc tình báo, biệt động, đặc công đánh vào Sài Gòn, có lúc trong đầu tôi nảy ra một ý nghĩ ngộ nghĩnh; nếu trong một giờ nào đó, mỗi người liên lạc của cách mạng đi vào thành với một ký hiệu đỏ trên tay, thì trên các nẻo đường tiến vào Sài Gòn, ta hình dung sẽ thấy những đường dây đỏ đan chéo nhau chằng chịt, từ Trảng Bàng, Củ Chi, Long An…
Khi xâm nhập nội đô Sài Gòn, được gia đình bà Nguyễn Thị Yên Thảo cưu mang, hết lòng che chở, ông đã xúc động nghẹn ngào, thấm thía lòng dân, khi nghe cha Tám Thảo bộc bạch: “Nói thiệt với con, vốn ba hiện nay, ngoài nhà cửa và sạp vải Tân Mỹ ở chợ Bến Thành, tiền gởi ngân hàng tính ra cũng hàng ngàn cây vàng. Ba biết nếu giặc bắt con trong nhà thì ba trắng tay hết. Gia đình, tài sản không còn gì, con cháu không được đi học nữa, nhiều người phải vào tù..., nhưng ba thương con, thương cách mạng. Ba tin cách mạng sẽ thành công. Con cứ yên tâm ở đây mà làm việc cho cách mạng, có gì bất trắc ba chết, con mới chết”.
Đêm Mậu Thân 1968, trên căn gác ngôi nhà 136B Gia Long, ông đã bắn phát đạn chia lửa cùng đội 5 Biệt động đánh vào Dinh độc lập bị vây bủa trong ngôi nhà đường Thủ Khoa Huân. Địch lùng sục từng ngóc ngách ngôi nhà nhưng ông đã được cứu sống bởi sự bình tĩnh, mưu trí của Tám Thảo. Nơi ông ẩn nấp cũng chính do tay chủ nhân ngôi nhà cưa đục trên tầng áp mái, để phòng khi vị “thiếu tá tình báo Việt Cộng” tránh gặp mặt những tên ác ôn.
Một tổ may cờ ở Gia Định. Ảnh: TƯ LIỆU
II
Khởi nguồn tìm tư liệu để viết cuốn tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ” về Mậu Thân 1968, tôi được các cô chú cựu chiến binh chỉ ra một nhân mối đặc biệt và nhiệt tình cho tôi địa chỉ: “Gặp ông Tư Chu đi, 14 Nguyễn Ư Dĩ, phường Thảo Điền quận 2”. Ông Tư Chu, tức Nguyễn Đức Hùng, chỉ huy một đội quân đặc biệt trong lòng Sài Gòn, được gọi theo cách của người Sài Gòn dành cho sự khâm phục, ngưỡng mộ là “Ông trùm biệt động” khiến tôi ngán ngại. Nhưng rồi tôi dũng cảm gõ cửa. Ôi! “ông trùm” hiện ra trước mắt tôi là một người đàn ông thanh mảnh, với gương mặt trầm tư và nụ cười hiền. Ông đã mở lòng để những trang sử biệt động Sài Gòn hiện ra với những số phận con người thầm lặng góp phần làm nên cuộc chiến đấu thần thánh. Chiến sĩ của ông là em bé đánh giày, cô gái bán ba, anh xích lô ba gác, cả những “yếu nhân” nơi phủ đầu rồng, là những cô gái đẹp như hoa, dịu dàng, e ấp giấu bên trong một sức mạnh quật cường, ngùn ngụt lòng ái quốc.
Ông trùm biệt động cứ day dứt hoài với những chiến sĩ - hiệp sĩ trong đường dây biệt động của ông. Đó là anh Phan Kim Thạch - một sĩ quan phiên dịch cho Nam Hàn, sẵn sàng làm giao liên đưa hai ông trùm biệt động Tư Chu và Ba Thắng thoát khỏi Sài Gòn sau đêm Mậu Thân 1968. Nhà tư sản dân tộc Bùi Duy Cận - người sáng lập và là chủ nhân Hãng sơn Bạch Tuyết, đã giúp hàng ngàn lượng vàng cho cách mạng. Sau ngày miền Nam hoàn toàn giải phóng, ông Cận lúc ấy sang Pháp chữa bệnh đã ủy nhiệm cho người cháu, hiến toàn bộ tài sản và hướng dẫn cách sản xuất sơn Bạch Tuyết cho cách mạng. Đó là câu chuyện “gia đình Biệt động” của má Vũ Thị Lượng, với chiếc xe ba gác, mẹ đẩy sau và đứa con tật nguyền đằng trước, chở rác rưởi, xà bần đi khắp thành phố Sài Gòn, chuyển vũ khí tận tay cho các chiến sĩ cách mạng. Ông Tư Chu mãi day dứt về sự hy sinh thầm lặng của anh Lê Huấn (Hai Hồ) - con trai một tướng lĩnh cao cấp Sài Gòn, quê gốc Quảng Nam đã hoạt động đơn tuyến trong lòng địch. Trong vai một sĩ quan quân đội cộng hòa, chính Hai Hồ lái xe đưa ông vào thị sát Bộ Tổng Tham mưu, chuẩn bị cho Mậu Thân 1968. Đó là người phụ nữ chấp nhận làm người chiến sĩ vô danh khi làm vợ một sĩ quan không quân Mỹ đã lấy được cho cách mạng tấm bản đồ chi tiết nội đô Sài Gòn và tấm bản đồ ấy đã giúp lãnh đạo phân khu nội đô nghiên cứu cho kế hoạch tổng tiến công…
III
Tiểu thuyết “Đêm Sài Gòn không ngủ” đã ra đời từ rung cảm mãnh liệt số phận những con người thầm lặng mà nghĩa khí rất đỗi Sài Gòn. Tôi cứ ám ảnh về đôi vợ chồng biệt động mà khi còn sống, ông kể về công lao và sự hy sinh của họ trong day dứt, ngậm ngùi. Đó là chiến sĩ biệt động Nguyễn Văn Thông - một con người tài hoa, tốt bụng, được nhiều người yêu mến. Ông gốc người Bến Tre, làm nghề dạy học, từng tham gia kháng chiến chống Pháp, bị địch truy lùng, cùng vợ lên Sài Gòn tham gia cách mạng. Ông vận động, thuyết phục được nhiều sĩ quan, viên chức, binh lính đối phương vào đội ngũ cách mạng như ông Năm Sơ Mi - người Ấn lai, là thẩm sát viên ngoại hạng ở Tổng nha cảnh sát chính quyền Sài Gòn. Năm Sơ Mi đã cung cấp cho ông Thông nhiều tin tức có giá trị. Ông Thông còn xây dựng được nhiều cơ sở để khai thác tin tức như phóng viên báo chí, sĩ quan quân trường Thủ Đức, một thượng sĩ an ninh quân đội... Ông có người bạn đời trung thành, tận tụy là bà Huỳnh Thị Phát. Với nghề y tá, chăm sóc sắc đẹp, bà tiếp cận với các vũ nữ hạng sang, vợ bé các tướng lĩnh để khai thác tin tức.
Càng tiếp cận với những trang lịch sử được làm nên bằng những cuộc đời thầm lặng, tôi càng cảm nhận vẻ đẹp thành phố mình đang sống một cách máu thịt, sâu thẳm. Với tôi, bản thân Sài Gòn là một kho báu di tích lịch sử khổng lồ, chạm vào đâu cũng thấy mình đang mắc nợ. Ôi sài Gòn rưng rưng hai chữ lòng dân...