Tại hội thảo “Tháo bỏ rào cản điều kiện kinh doanh: Lựa chọn cải cách cho phát triển doanh nghiệp” do Viện Nghiên cứu Quản lý kinh tế trung ương (CIEM) tổ chức ngày 6-7 ở Hà Nội, đại diện nhóm nghiên cứu CIEM đã trình bày kết quả rà soát sơ bộ về ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện và điều kiện kinh doanh trong 15 lĩnh vực. Kết quả rà soát cho thấy, chất lượng điều kiện kinh doanh trong một số lĩnh vực đã được cải thiện.
Cụ thể, điều kiện kinh doanh trong một số lĩnh vực được thiết kế có hệ thống, rõ ràng, dễ hiểu, dễ theo dõi. Số lượng điều kiện kinh doanh quy định chung chung, thiếu minh bạch, khó tiên liệu đã giảm đáng kể so với trước năm 2017. Điều kiện kinh doanh về nhân sự, cơ sở vật chất cũng được quy định rõ và giảm mức độ đáp ứng điều kiện. Các yêu cầu về vốn được bãi bỏ ở hầu hết các lĩnh vực, tạo xu hướng xây dựng pháp luật minh bạch.
Kết quả thực hiện chủ trương cải thiện môi trường kinh doanh |
Theo Thứ trưởng Bộ KH-ĐT Trần Duy Đông, giai đoạn 2016-2019, Bộ KH-ĐT cùng với các bộ, ngành đã rà soát tổng thể; theo đó hầu hết các nghị định sửa đổi về điều kiện kinh doanh đã được ban hành để cắt bỏ, đơn giản hóa khoảng 50% số điều kiện kinh doanh.
Tuy nhiên, thời gian gần đây, nỗ lực cải thiện môi trường kinh doanh nói chung và cải cách điều kiện kinh doanh nói riêng có dấu hiệu chững lại; nhiều mục tiêu, nhiệm vụ, giải pháp chưa đáp ứng yêu cầu như Chính phủ đã chỉ đạo và cộng đồng doanh nghiệp kỳ vọng. Ở một số lĩnh vực, rào cản điều kiện kinh doanh thậm chí còn thắt chặt hơn.
Về danh mục ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện, từ năm 2014, danh mục ngành nghề đầu tư, kinh doanh có điều kiện được quy định tại phụ lục 4 của Luật Đầu tư gồm 267 ngành nghề. Sau đó, danh mục này được sửa đổi còn 243 ngành nghề (năm 2016) và còn 227 ngành nghề (theo Luật Đầu tư 2020).
Kết quả rà soát sơ bộ cho thấy số lượng ngành nghề đầu tư kinh doanh có điều kiện tuy giảm về hình thức nhưng nội hàm của ngành nghề mở rộng và bao trùm hơn. Thực tế, số lượng ngành nghề cụ thể có quy định về điều kiện kinh doanh tại pháp luật chuyên ngành lớn hơn nhiều con số 227 ngành nghề theo danh mục của Luật Đầu tư 2020.
Ngoài ra, có một số ngành nghề được quy định tại pháp luật chuyên ngành, nhưng không thống nhất với tên quy định tại Luật Đầu tư 2020; một số ngành nghề chưa có cơ sở thuyết phục về sự cần thiết phải quy định là ngành nghề kinh doanh có điều kiện; một số ngành nghề hiện chưa được Chính phủ quy định về điều kiện kinh doanh; một số ngành nghề không có trong danh mục nhưng vẫn ban hành điều kiện kinh doanh; một số ngành nghề đã được bãi bỏ khỏi danh mục của Luật Đầu tư 2020 nhưng Nghị định quy định về điều kiện kinh doanh vẫn còn hiệu lực thi hành. Mặt khác, vẫn có sự không nhất quán trong xác định ngành nghề kinh doanh có điều kiện.
Điều kiện kinh doanh có thể giảm về hình thức, nhưng số lượng điều kiện kinh doanh có thể không giảm, bởi được dẫn chiếu bằng nhiều quy định khác nhau. Một số khó khăn nổi bật khác cũng được nhận diện, như quy định quá nhiều chứng chỉ, hạn chế phân cấp trong cấp phép hay việc phải thực hiện thủ tục điều chỉnh các loại giấy phép con nhiều lần ngay cả khi không có thay đổi về nội dung ảnh hưởng đến phạm vi hoạt động đã được cấp phép…