Nhớ sáng chủ nhật đó mẹ cõng tôi ra đầu ngõ thì gặp cô giáo dạy lớp vỡ lòng, bị cô nhắc nhở nó lớn tướng rồi sao còn để mẹ cõng. Hôm sau vào lớp, tôi nhìn cô lấm la lấm lét như mới vừa phạm trọng tội. Nhớ ba tôi gầy gò, mỗi lần đạp xe chở tôi đi ăn phở chỉ gọi một tô rồi ba ngồi nhìn tôi ăn mà thấy no lòng. Hồi ấy tôi cứ thắc mắc tại sao các bạn gọi cha nó bằng bố còn mình thì gọi bằng ba? Ba chỉ cười và nói: bao giờ đất nước thống nhất con sẽ hiểu.
Nhớ con mèo cụt đuôi là thành viên thứ 10 của gia đình tôi, khi nó bệnh chết thì 6 chị em cùng khóc thút thít đem chôn nó dưới gốc cây bàng có đốt nến, thắp nhang đàng hoàng. Nhớ mấy cây nhãn trong sân, khi trái mới chín thì bọn tôi đã hái trộm ăn, đến khi thu hoạch mỗi nhà được chia một rổ nhãn thơm lừng thì chẳng đứa nào còn thèm. Nhớ mãi ngày hôm ấy cả xóm vui như hội, ai cũng hân hoan, không ngớt reo lên: Hòa bình rồi, thống nhất rồi. Tôi nghe nói nhà tôi sẽ chuyển vào Sài Gòn ở với ông bà nội mà tôi chưa được gặp mặt. Thằng bạn nhà bên cứ dặn đi dặn lại rằng bao giờ vào Sài Gòn nhớ nhặt cho nó cái đồng hồ. Ít lâu sau gia đình tôi chuyển vào Sài Gòn trên một chuyến tàu hỏa chất đầy cảm xúc. Bà ngoại ở lại Hà Nội với dì tôi. Dì viết thư cho tôi kể rằng chiều nào bà ngoại cũng ôm cái áo carô cũ dính đầy mực tím của tôi mà khóc: Mi có khỏe không, có nhớ bà không?…
2. Năm giờ sáng. Đám tang trong một con hẻm nhỏ ở Chợ Lớn đến giờ động quan, mọi người đứng hai bên hẻm, xe cộ tạm ngưng lưu thông qua lại. Bỗng một người phụ nữ trạc 65 tuổi mặc áo đen từ đầu hẻm hớt hải chạy đến quỳ trước quan tài lạy, khóc sướt mướt. Mọi người nhìn nhau tỏ vẻ ngạc nhiên: Ai vậy? Người phụ nữ bước đến chủ tang nói gì đó rồi xin một chiếc khăn tang. Chúng tôi nghe tiếng xì xầm: Vợ bé hả?
Sau lễ động quan, người phụ nữ cùng bước lên đoàn xe đưa người quá cố hỏa táng. Xe chạy ít phút, mọi người hỏi chuyện. Người phụ nữ (nói giọng miền Bắc) kể: “Tôi mới từ Hà Nội vào bằng tàu hỏa. Chú Tư (người quá cố) là ân nhân của vợ chồng tôi. Ngày ấy, chú Tư từ miền Nam tập kết ra Bắc, làm chuyên viên ở Bộ, còn chồng tôi là lái xe, tôi là cấp dưỡng ở một xí nghiệp thuộc Bộ. Chúng tôi ở chung khu tập thể với chú Tư. Chú Tư tốt bụng, luôn quan tâm mọi người. Chính chú Tư tác hôn cho vợ chồng chúng tôi. Chú tặng chúng tôi nửa tháng lương để phụ lo tiệc cưới (ngày ấy đám cưới chỉ gồm bánh kẹo, nước trà). Khi tôi sinh thằng con đầu, chú mang đổi cho vợ chồng tôi cái chăn len Liên Xô chú đang dùng lấy cái chăn bông nhỏ của vợ chồng tôi và bảo: “Chú dùng cái chăn này là vừa rồi”... Đất nước thống nhất, chú Tư trở vào Sài Gòn. Vợ chồng tôi chỉ được gặp lại chú một lần hôm chú ra thăm lại Hà Nội…
Năm 1980, hai chị em trốn chú mang theo đứa cháu ngoại lên tàu vượt biên sang Mỹ. Vậy là nhà chỉ còn chú và cô chăm sóc lẫn nhau. Dù trong sâu thẳm mù khơi có những nỗi buồn, nhưng chú Tư luôn giữ nụ cười, ánh mắt rạng ngời con đường cách mạng chân chính mà chú đã chọn. Chú Tư nghỉ hưu, rồi theo đúng quy luật đời người: sanh, lão, bệnh, tử...
3. Bên ven bờ Hiền Lương chiều nay ra đứng trông về
Mắt đượm tình quê đôi mắt đượm tình quê...
...Trông qua rặng Trường Sơn, miền quê xa khuất chân trời. Mây lặng lờ trôi mây đen lặng lờ trôi. Xa xa một đàn chim, so mây dang cánh lưng trời. Hỡi chim hãy dừng cho ta gửi đến phương xa vời...
Lời ca da diết trong nhạc phẩm nổi tiếng Câu hò bên bờ Hiền Lương được nhạc sĩ Hoàng Hiệp viết trong bối cảnh đau xót của bản thân ông, cũng là tâm trạng của biết bao người khác trong thời kỳ nước nhà còn bị chia cắt. Dòng sông Bến Hải - cầu Hiền Lương (Quảng Trị) như nhân chứng lịch sử của chiến tranh tàn khốc và sự chia ly thấm đẫm nước mắt ở những năm tháng ấy.
Những ngày cuối năm, chúng tôi về TP Cao Lãnh, tỉnh Đồng Tháp tìm đến khu Tượng đài Tập kết 1954 tại Bến Bắc Cao Lãnh, bên cạnh cầu Cao Lãnh - cây cầu dây văng lớn thứ 3 nối hai bờ sông Tiền. 65 năm trước, nơi đây được chọn làm điểm tập kết, đưa tiễn 13.508 cán bộ, chiến sĩ và con em miền Nam từ các tỉnh Mỹ-Tân-Gò, Long Châu Sa, Gia-Định-Ninh, Phân Liên Khu miền Đông và quân tình nguyện Cao Miên xuống tàu tập kết ra miền Bắc. Chuyến tàu cuối cùng chở đoàn quân tập kết rời bến Bắc Cao Lãnh vào ngày 29-10-1954.
Đứng giữa khu tượng đài lộng gió, nhìn dòng nước sông Tiền chậm rãi trôi, xa xa những cánh chim trời tung bay trong nắng xuân, bỗng ùa về ca khúc Tình ca của Nhạc sĩ Hoàng Việt viết trong những ngày ông chia tay người vợ trẻ, để từ Cà Mau tập kết ra Bắc: “Khi hát lên tiếng ca gửi về người yêu quê ta/Ta át tiếng gió mưa thét gào cuộn dâng phong ba/Em ơi nghe chăng lời trái tim vọng ra...”. Có biết bao lời thơ, lời ca thật da diết về những ngày tháng hào hùng ấy, về một thế hệ những người con miền Nam tập kết ra Bắc, hy sinh hạnh phúc cá nhân, ra đi không màng danh lợi, ra đi vì nghĩa lớn. Ra đi để trở về!