- Theo khoản 1 Điều 21 Nghị định 10/2015 (quy định về sinh con bằng kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm và điều kiện mang thai hộ vì mục đích nhân đạo), việc gửi tinh trùng lưu giữ tại các cơ sở khám chữa bệnh được thực hiện trong các trường hợp: người chồng hoặc người vợ trong những cặp vợ chồng đang điều trị vô sinh; người có nguyện vọng muốn lưu giữ cá nhân; người tình nguyện hiến tinh trùng; cặp vợ chồng vô sinh hoặc phụ nữ độc thân lưu giữ phôi còn dư sau khi thụ tinh trong ống nghiệm thành công.
Việc lưu giữ tinh trùng được thực hiện tại các cơ sở khám chữa bệnh đã được thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm để lưu giữ, bảo quản tinh trùng phục vụ cho việc thực hiện kỹ thuật thụ tinh trong ống nghiệm. Khi có nguyện vọng muốn lưu giữ tinh trùng, người gửi tinh trùng phải trả chi phí lưu giữ, bảo quản thông qua hợp đồng dân sự với cơ sở lưu giữ tinh trùng, trừ trường hợp tinh trùng được hiến tặng cho người khác. Nếu người gửi không đóng phí lưu giữ, bảo quản, thì trong thời hạn 6 tháng cơ sở khám chữa bệnh có quyền hủy tinh trùng đã gửi.
Trong trường hợp người gửi tinh trùng tại các cơ sở khám chữa bệnh chết, căn cứ theo quy định tại khoản 2 Điều 21 Nghị định 10/2015, sau khi cơ sở lưu giữ tinh trùng nhận được thông báo kèm theo bản sao giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình của người gửi thì phải hủy số tinh trùng của người đó, trừ trường hợp vợ hoặc chồng của người đó có đơn đề nghị lưu giữ và vẫn duy trì đóng phí lưu giữ, bảo quản.
Như vậy, theo quy định của pháp luật có thể hiểu, nếu người gửi tinh trùng còn độc thân, khi có thông báo kèm theo bản sao giấy khai tử hợp pháp từ phía gia đình, thì số tinh trùng được lưu giữ tại cơ sở khám chữa bệnh sẽ bị hủy. Ngược lại, nếu người gửi tinh trùng đã có vợ, thì người vợ có quyền làm đơn đề nghị tiếp tục lưu giữ tinh trùng và vẫn đóng phí lưu giữ, bảo quản. Trong trường hợp người vợ sử dụng tinh trùng đó để sinh con, sẽ làm phát sinh quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân gia đình. Quan hệ ngoài quan hệ hôn nhân và gia đình sẽ được giải quyết theo quy định của pháp luật hôn nhân gia đình và pháp luật dân sự.
Theo khoản 1 Điều 88 Luật Hôn nhân và Gia đình năm 2014, con được sinh ra trong thời hạn không quá 300 ngày kể từ thời điểm chấm dứt hôn nhân được coi là con do người vợ có thai trong thời kỳ hôn nhân. Pháp luật quy định một trong những trường hợp hôn nhân chấm dứt là kể từ thời điểm vợ hoặc chồng chết. Như vậy, sau khi người chồng chết, người vợ sinh con bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm bằng tinh trùng của người chồng lưu giữ vẫn được xác định là con chung của hai vợ chồng nếu con được sinh ra trong thời hạn không quá 300 ngày kể từ thời điểm người chồng chết.
Thế nhưng, khi áp dụng quy định của pháp luật dân sự về quyền thừa kế trong trường hợp này thì tồn tại điểm bất cập. Điều 613 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định: “Người thừa kế là cá nhân phải là người còn sống vào thời điểm mở thừa kế hoặc sinh ra và còn sống sau thời điểm mở thừa kế nhưng đã thành thai trước khi người để lại di sản chết. Trường hợp người thừa kế theo di chúc không là cá nhân thì phải tồn tại vào thời điểm mở thừa kế”.
Thời điểm mở thừa kế được xác định là thời điểm người có tài sản chết. Như vậy, sau khi người cha chết, người con được sinh ra bằng phương pháp thụ tinh trong ống nghiệm sẽ không được pháp luật công nhận là người thừa kế hợp pháp, bởi lẽ người con được thành thai sau khi người để lại di sản chết.