Nghị định 15/2020/NĐ-CP (viết tắt NĐ15) của Chính phủ vừa có hiệu lực thi hành từ ngày 15-4-2020. Trong phạm vi điều chỉnh của nghị định này có vấn đề sử dụng thông tin cá nhân của người khác trên mạng xã hội, do vậy nhiều người dùng mạng xã hội đang rất quan tâm tìm hiểu. Luật sư Phan Vũ Tuấn, Phó Chủ tịch Hội Sở hữu trí tuệ TPHCM, Trưởng văn phòng luật sư Phan Law Vietnam, đã trả lời phỏng vấn về vấn đề này.
- PHÓNG VIÊN: Thưa luật sư, nhiều người dùng mạng xã hội đang lo ngại do có thông tin rằng với việc thực thi NĐ15 (quy định về xử phạt vi phạm hành chính trong lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử), việc đăng tải hình ảnh của người khác trên mạng xã hội mà chưa có sự đồng ý của người đó sẽ bị xử phạt rất nặng. Đề nghị luật sư cho biết pháp luật Việt Nam quy định như thế nào về việc đăng tải hình ảnh người khác lên mạng xã hội?
Luật sư PHAN VŨ TUẤN: Pháp luật Việt Nam quy định rất rõ về quyền của cá nhân đối với hình ảnh của mình. Cụ thể, tại khoản 1, Điều 32 Bộ luật Dân sự năm 2015 quy định rằng cá nhân có quyền đối với hình ảnh của mình, việc sử dụng hình ảnh của cá nhân phải được người đó đồng ý. Hơn nữa, nếu việc sử dụng hình ảnh của người khác vì mục đích thương mại thì phải trả thù lao cho người có hình ảnh trong trường hợp các bên không có thỏa thuận khác. Tuy nhiên, không phải trong mọi trường hợp việc sử dụng hình ảnh cá nhân của người khác cần phải xin phép. Tại khoản 2, Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015 đưa ra 2 trường hợp miễn trừ nghĩa vụ xin phép: hình ảnh của cá nhân được sử dụng vì lợi ích quốc gia, dân tộc, lợi ích công cộng, hoặc hình ảnh của cá nhân được sử dụng từ các hoạt động công cộng (bao gồm hội nghị, hội thảo, hoạt động thi đấu thể thao, biểu diễn nghệ thuật và hoạt động công cộng khác) mà không làm tổn hại đến danh dự, nhân phẩm, uy tín của người đó.
- Vậy trường hợp đăng tải lên mạng xã hội hình ảnh chụp chung với bạn bè thì có cần phải xin phép từng người hay không?
Căn cứ quy định vừa nêu, nếu việc sử dụng ảnh chụp chung với bạn bè thuộc 2 trường hợp miễn trừ của luật định thì không cần phải xin phép. Và ngược lại, nếu việc sử dụng ảnh chụp với bạn bè không thuộc 2 trường hợp miễn trừ trên thì về nguyên tắc người sử dụng ảnh có hình ảnh của cá nhân khác thì phải xin phép người đó.
- Việc đăng tải hình ảnh người khác lên mạng xã hội mà chưa được sự đồng ý của người đó thì sẽ bị xử lý như nào theo quy định của pháp luật, và cụ thể là theo quy định của NĐ15?
Theo khoản 3, Điều 32 Bộ luật Dân sự 2015, khi phát hiện người khác đăng tải hình ảnh của mình lên mạng xã hội mà không thuộc 2 trường hợp miễn trừ nghĩa vụ xin phép thì người có hình ảnh có quyền yêu cầu tòa án ra quyết định buộc người vi phạm, cơ quan, tổ chức, cá nhân có liên quan phải thu hồi, tiêu hủy, chấm dứt việc sử dụng hình ảnh của mình; bồi thường thiệt hại nếu có và áp dụng các biện pháp xử lý hành chính, hoặc hình sự, tùy thuộc vào mức độ nghiêm trọng của hành vi vi phạm.
NĐ15 được ban hành để thay thế cho Nghị định 174/2013/NĐ-CP nhằm mục đích có những quy định chi tiết hơn, phù hợp hơn trong bối cảnh lĩnh vực bưu chính, viễn thông, tần số vô tuyến điện, công nghệ thông tin và giao dịch điện tử ngày càng phát triển; trong đó, nhấn mạnh trách nhiệm của cá nhân và tổ chức khi sử dụng dịch vụ mạng xã hội. Hình ảnh cá nhân được xem là một trong các thông tin của cá nhân đó. Do vậy, hành vi đăng tải hình ảnh của người khác lên mạng xã hội mà không được sự đồng ý của người đó có thể xem như là hành vi sử dụng, phát tán thông tin cá nhân trái pháp luật. Theo quy định tại điểm c, khoản 2, Điều 84 của NĐ15, hành vi thu thập, sử dụng, phát tán, kinh doanh trái pháp luật thông tin cá nhân của người khác sẽ bị phạt tiền 20-30 triệu đồng, kèm theo biện pháp khắc phục hậu quả là buộc hủy bỏ thông tin cá nhân đó.
Ngoài biện pháp xử lý hành chính nói trên, trong trường hợp có tính chất nghiêm trọng, cá nhân đăng tải ảnh trái phép còn có thể bị truy cứu trách nhiệm hình sự theo điểm b, khoản 1, Điều 288 Bộ luật Hình sự 2015. Theo đó, trường hợp mua bán, trao đổi, tặng cho, sửa chữa, thay đổi hoặc công khai hóa thông tin riêng hợp pháp của cơ quan, tổ chức, cá nhân trên mạng máy tính, mạng viễn thông mà không được phép của chủ sở hữu thông tin đó, thu lợi bất chính từ 50 triệu đồng đến dưới 200 triệu đồng, hoặc gây thiệt hại từ 100 triệu đồng đến dưới 500 triệu đồng, hoặc gây dư luận xấu làm giảm uy tín của cơ quan, tổ chức, cá nhân thì bị phạt tiền 30-200 triệu đồng, phạt cải tạo không giam giữ đến 3 năm, hoặc bị phạt tù từ 6 tháng đến 3 năm.