Theo đó, lần sửa đổi này Luật Dầu khí bổ sung chính sách khai thác mỏ dầu khí tận thu (lô, mỏ đã khai thác nhưng hiện giảm sản lượng, nhà đầu tư kết thúc hợp đồng sớm hoặc hết hạn hợp đồng). Cơ chế này nhằm mang lại thêm nguồn thu cho ngân sách, góp phần bảo đảm an ninh, quốc phòng, bảo vệ chủ quyền quốc gia của Việt Nam.
Ủy ban Thường vụ Quốc hội đánh giá, đây là chính sách mới với nhiều nội dung mang tính đột phá. Đây cũng là cơ sở pháp lý cần thiết để khai thác hiệu quả hơn tài nguyên dầu khí, góp phần tăng thu ngân sách nhà nước trong bối cảnh dự báo những năm tới có nhiều lô, mỏ dầu sẽ ở giai đoạn cuối đời khai thác, chuyển sang thời kỳ khai thác tận thu.
Luật cũng đã sửa đổi bổ sung quy định Thủ tướng quyết định cơ chế điều hành khai thác tận thu mỏ, cụm mỏ, lô dầu khí.
Về hợp đồng dầu khí, tiếp thu ý kiến đại biểu Quốc hội, Điều 31 đã chỉnh sửa, quy định khoản riêng về trách nhiệm các chủ thể liên quan trong quyết định thời gian tạm dừng thực hiện một số quyền và nghĩa vụ tại hợp đồng dầu khí trong trường hợp bất khả kháng và vì lý do quốc phòng an ninh.
Cụ thể, trường hợp bất khả kháng, các bên tham gia hợp đồng dầu khí thỏa thuận phương thức tạm dừng, PVN báo cáo Bộ Công thương quyết định. Trường hợp vì lý do quốc phòng, an ninh, thời gian tạm dừng thực hiện một số quyền và nghĩa vụ trong hợp đồng dầu khí do Thủ tướng quyết định.
Trường hợp nhà thầu quyết định rút khỏi hợp đồng dầu khí vì lý do đặc biệt, Luật giao Chính phủ quy định hồ sơ, trình tự, thủ tục trình, thẩm định, phê duyệt và cơ chế quản lý, theo dõi, sử dụng, xử lý tài chính với tài sản và tiếp nhận quyền lợi tham gia từ nhà thầu dầu khí.
Đáng lưu ý, luật đã có một chương riêng về chức năng, quyền và nghĩa vụ của PVN trong điều tra cơ bản, hoạt động dầu khí.