Trình bày báo cáo giải trình, tiếp thu, chỉnh lý dự thảo Nghị quyết về Quy hoạch tổng thể quốc gia thời kỳ 2021-2030, tầm nhìn đến năm 2050, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) tiếp thu và đã chỉ đạo rà soát, chỉnh lý, hoàn thiện dự thảo Nghị quyết, bảo đảm phù hợp với Chiến lược và các nghị quyết về phát triển ngành, lĩnh vực, vùng lãnh thổ và địa phương đã được ban hành.
Đại biểu Quốc hội biểu quyết thông qua các Luật, Nghị quyết chiều 9-1. Ảnh: QUANG PHÚC |
Đối với đề nghị bổ sung định hướng hình thành cơ quan điều phối vùng, UBTVQH đã tiếp thu và thể hiện tại dự thảo nghị quyết giao Chính phủ nghiên cứu xây dựng mô hình tổ chức, cơ chế điều phối vùng; nâng cao hiệu quả hoạt động hội đồng điều phối vùng gắn với các nhiệm vụ điều phối, thúc đẩy liên kết cụ thể; nghiên cứu việc xây dựng cơ chế về phối hợp nguồn lực giữa các địa phương. Đồng thời, sắp xếp lại kết cấu của dự thảo nghị quyết về vùng kinh tế - xã hội, vùng động lực phát triển, hành lang kinh tế để làm rõ hơn sự liên kết. Bên cạnh đó, đề nghị Chính phủ tiếp tục làm rõ hơn các nội dung theo ý kiến đại biểu Quốc hội để cụ thể hóa trong các quy hoạch vùng.
UBTVQH cũng tiếp thu chỉnh lý danh mục là danh mục dự kiến các dự án quan trọng quốc gia. Đồng thời, rà soát đưa một số dự án quan trọng trong lĩnh vực giao thông đang được triển khai và sẽ tiếp tục được triển khai, một số dự án có vai trò quan trọng với sự phát triển của đất nước trong thời kỳ quy hoạch và giai đoạn tiếp theo đã được xác định trong Chiến lược phát triển, các nghị quyết của Đảng, nghị quyết của Quốc hội. Các dự án khi được nghiên cứu, triển khai các thủ tục đầu tư nếu đáp ứng tiêu chí dự án quan trọng quốc gia thì phải trình Quốc hội xem xét, quyết định, chấp thuận chủ trương đầu tư theo quy định của pháp luật, đồng thời sẽ được bổ sung vào danh mục này như quy định dự thảo nghị quyết…
Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh trình bày báo cáo. Ảnh: QUANG PHÚC |
Liên quan đến đề nghị làm rõ thêm cơ sở xác định tốc độ tăng trưởng kinh tế các vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng cao hơn so với tốc độ phát triển trung bình chung của quốc gia, trong khi quy mô kinh tế các vùng này ở mức cao hơn nhiều so với bình quân chung, UBTVQH cho biết, mục tiêu tăng trưởng của vùng Đông Nam bộ và vùng Đồng bằng sông Hồng của dự thảo Quy hoạch tổng thể quốc gia đã phù hợp với Nghị quyết số 24-NQ/TW ngày 7-10-2022 và Nghị quyết số 30-NQ/TW ngày 23-11-2022 của Bộ Chính trị về phát triển kinh tế - xã hội và bảo đảm quốc phòng an ninh vùng Đông Nam bộ, vùng Đồng bằng sông Hồng đến năm 2030, tầm nhìn đến năm 2050. Đồng thời, các mục tiêu này cũng thể hiện định hướng tập trung nguồn lực cho 2 vùng động lực để phát triển hạ tầng và thu hút đầu tư, bảo đảm vai trò đầu tàu, dẫn dắt sự phát triển của quốc gia.
Theo nghị quyết, Quốc hội thống nhất, giai đoạn 2031-2050 phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trong nước (GDP) bình quân khoảng 6,5%- 7,5%/năm. Đến năm 2050, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 27.000-32.000 USD; tỷ lệ đô thị hóa đến năm 2050 đạt 70-75%. Còn đến năm 2030, kinh tế phấn đấu tốc độ tăng trưởng GDP cả nước bình quân đạt khoảng 7,0%/năm giai đoạn 2021 - 2030. Đến năm 2030, GDP bình quân đầu người theo giá hiện hành đạt khoảng 7.500 USD. Tỷ trọng trong GDP của khu vực dịch vụ đạt trên 50%, khu vực công nghiệp - xây dựng trên 40%, khu vực nông, lâm, thủy sản dưới 10%. Tốc độ tăng năng suất lao động xã hội bình quân đạt trên 6,5%/năm. Quốc hội yêu cầu phát huy lợi thế của từng vùng kinh tế - xã hội; tập trung phát triển hai vùng động lực phía Bắc và phía Nam gắn với hai cực tăng trưởng là Thủ đô Hà Nội và TPHCM, hành lang kinh tế Bắc - Nam, các hành lang kinh tế Lào Cai - Hà Nội - Hải Phòng - Quảng Ninh, Mộc Bài - TPHCM – Biên Hòa - Vũng Tàu với kết cấu hạ tầng đồng bộ, hiện đại, có tốc độ tăng trưởng cao, đóng góp lớn vào phát triển chung của đất nước...
Nghị quyết cũng nêu rõ định hướng phát triển không gian kinh tế - xã hội, tổ chức không gian phát triển đất nước thành 6 vùng kinh tế - xã hội. Định hướng phát triển vùng và liên kết vùng gồm có: Vùng trung du và miền núi phía Bắc phấn đấu tốc độ tăng trưởng tổng sản phẩm trên địa bàn (GRDP) bình quân đạt khoảng 8%-9%/năm; Vùng Đồng bằng sông Hồng phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 9%/năm; Vùng Bắc Trung Bộ và duyên hải miền Trung phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7%-7,5%/năm; Vùng Tây Nguyên phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 7%-7,5%/năm; Vùng Đông Nam bộ phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 8%- 8,5%/năm; Vùng Đồng bằng sông Cửu Long phấn đấu tốc độ tăng trưởng GRDP bình quân đạt khoảng 6,5%-7%/năm.
Nghị quyết xác định phát triển vùng động lực phía Nam, bao gồm TPHCM và các địa bàn cấp huyện dọc theo trục Quốc lộ 22, Quốc lộ 13, Quốc lộ 1, Quốc lộ 51 qua các tỉnh Bình Dương, Đồng Nai, Bà Rịa - Vũng Tàu, trong đó TPHCM là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực.
Hình thành, phát triển vùng động lực Đồng bằng sông Cửu Long bao gồm thành phố Cần Thơ, các địa bàn cấp huyện của các tỉnh An Giang, Kiên Giang, Vĩnh Long, Đồng Tháp gắn với khu vực kết nối các tuyến đường cao tốc (cao tốc Bắc - Nam phía Đông đoạn Cần Thơ - Vĩnh Long, cao tốc An Hữu - Cao Lãnh, cao tốc Bắc - Nam phía Tây từ Cao Lãnh đến Rạch Sỏi) và thành phố Phú Quốc; trong đó thành phố Cần Thơ là cực tăng trưởng. Trong giai đoạn sau năm 2030, tiếp tục mở rộng phạm vi của vùng động lực gắn với cảng biển Trần Đề, Sóc Trăng; từng bước xây dựng, hình thành vùng động lực tại vùng trung du và miền núi phía Bắc; khu vực Bắc Trung bộ (Thanh Hóa, Nghệ An, Hà Tĩnh) kết nối giữa miền Trung và Đồng bằng sông Hồng; vùng Tây Nguyên; khu vực duyên hải Nam Trung bộ (khu vực Khánh Hòa, Ninh Thuận, Bình Thuận và phụ cận)...
Kết quả đã có 449/489 đại biểu có mặt tại hội trường biểu quyết tán thành thông qua Nghị quyết, chiếm 90,52%.