Tiếp thu, giải trình và chỉnh lý dự thảo Bộ luật Lao động (sửa đổi) của Ủy ban Thường vụ Quốc hội (UBTVQH) cho biết, UBTVQH đã xin ý kiến ĐBQH về về nội dung của các điều 107, 112 và 169 trong dự thảo Bộ luật trước khi trình Quốc hội bấm nút thông qua.
Giao Chính phủ đề xuất giảm giờ làm việc bình thường thấp hơn 48 giờ/tuần
Về thời giờ làm việc bình thường (Điều 105), nhiều ý kiến ĐBQH đề nghị giảm giờ làm việc bình thường từ 48 giờ/tuần xuống 44 giờ/tuần; một số ý kiến ĐB đề nghị giữ như quy định hiện hành về thời giờ làm việc bình thường là 48 giờ/tuần, đồng thời có ý kiến ĐB đề nghị cần hết sức cân nhắc khi thay đổi quy định về thời giờ làm việc bình thường trong bối cảnh hiện nay,do đây là vấn đề lớn, chưa có đánh giá tác động một cách đầy đủ.
UBTVQH cho rằng, việc tăng lương, giảm giờ làm, cải thiện và nâng cao điều kiện lao động đối với người lao động là xu hướng tiến bộ của thế giới.
Về vấn đề này, UBTVQH đã báo cáo Quốc hội tại Báo cáo số 466/BC-UBTVQH14 ngày 22-10-2019, lúc đó, Chính phủ chưa đánh giá tác động về kinh tế - xã hội đối với vấn đề này; trong khi đó, ý kiến của Chính phủ, người sử dụng lao động, người lao động còn rất khác nhau, cần có thêm thời gian để đánh giá tác động đầy đủ, phù hợp với sự phát triển của nền kinh tế, sức cạnh tranh của doanh nghiệp, để có sự điều chỉnh thời giờ làm việc bình thường cho phù hợp, hài hòa lợi ích giữa các bên, bảo đảm tăng trưởng của nền kinh tế nhưng phải bảo vệ được quyền và lợi ích hợp pháp của người lao động.
Vì vậy, cơ quan chủ trì thẩm tra đã chủ động đề nghị Chính phủ phối hợp tiếp thu, giải trình ý kiến của các vị ĐBQH, trong đó thể hiện quan điểm của Chính phủ về nội dung này. Chính phủ đã có Công văn số 561/CP-PL ngày 6-11-2019 đề nghị “trước mắt giữ nguyên thời giờ làm việc bình thường như quy định của Bộ luật hiện hành” và “có lộ trình điều chỉnh giảm giờ làm việc bình thường vào thời điểm thích hợp”.
Vì vậy, UBTVQH đề nghị việc từng bước giảm giờ làm theo hướng sẽ ghi vào Nghị quyết của kỳ họp: giao Chính phủ căn cứ tình hình phát triển kinh tế - xã hội, đề xuất giảm giờ làm việc bình thường thấp hơn 48 giờ/tuần; đồng thời, giữ quy định “Nhà nước khuyến khích người sử dụng lao động thực hiện tuần làm việc 40 giờ đối với người lao động” tại Điều 105 về thời giờ làm việc bình thường.
Trên cơ sở đó, Chính phủ sẽ có các quy định triển khai cụ thể. Đặc biệt, cần phối hợp với Tổng Liên đoàn Lao động Việt Nam, tổ chức đại diện người sử dụng lao động hướng dẫn về cơ chế thương lượng tập thể hiệu quả để từng bước thực hiện cho được việc giảm giờ làm việc bình thường, bảo đảm hài hòa lợi ích của các bên.
Chốt giờ làm thêm từ trên 200 giờ-300 giờ/1 năm
Về mở rộng khung thỏa thuận thời giờ làm thêm tối đa (Điều 107), nhiều ĐBQH đồng ý với phương án 1 quy định như Bộ luật Lao động hiện hành, nhưng có nâng giới hạn làm thêm giờ tối đa trong tháng từ 30 giờ lên 40 giờ và bổ sung cụ thể các trường hợp được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm; một số ý kiến đồng ý với phương án 2 nâng khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa từ 300 giờ lên 400 giờ trong một năm.
UBTVQH đã xin ý kiến ĐBQH, kết quả có 406 ĐBQH bày tỏ chính kiến, thì có 318 đại biểu đồng ý giữ khung thỏa thuận giờ làm thêm tối đa như Bộ luật hiện hành, nhưng cần ghi rõ thời gian làm thêm giờ theo tháng là 40 giờ/tháng thay vì 30 giờ/tháng và bổ sung quy định cụ thể về các trường hợp được tổ chức làm thêm giờ từ trên 200 giờ đến 300 giờ trong một năm.
Do đó, UBTVQH đã chỉ đạo chỉnh lý điều này như trong dự thảo Bộ luật. Cụ thể: bảo đảm số giờ làm thêm của người lao động không quá 200 giờ trong 1 năm, trừ các trường hợp theo quy định; người sử dụng lao động được sử dụng người lao động làm thêm không quá 300 giờ trong một năm trong một số ngành, nghề, công việc hoặc trường hợp theo quy định.
Tăng tuổi nghỉ hưu
Về tuổi nghỉ hưu (khoản 2 Điều 169), nhiều ý kiến ĐBQH tán thành với quy định theo phương án 1 về lộ trình tăng tuổi nghỉ hưu, tức là đến năm 2028 sẽ có lao động nam đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 62 và năm 2035 sẽ có lao động nữ đầu tiên nghỉ hưu ở độ tuổi 60; một số ĐBQH đồng ý với phương án 2 và cho rằng việc áp dụng cùng một lộ trình nâng tuổi nghỉ hưu khó có thể áp dụng chung cho các đối tượng lao động khác nhau; có ý kiến đề nghị giữ nguyên tuổi nghỉ hưu như hiện nay; một số ý kiến đề nghị đối với lao động nữ thì tuổi nghỉ hưu chỉ đến 58 tuổi; có ý kiến đề nghị đối với nhóm lao động trực tiếp và một số lao động đặc thù cần xem xét giữ như Bộ luật hiện hành…
Kết quả xin ý kiến của UBTVQH cho thấy, có 371 ĐBQH tham gia ý kiến thì có 280 ĐB đồng ý phương án 1 là: “Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 03 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ”. UBTVQH đã tiếp thu và thể hiện trong dự thảo Bộ luật.
Lễ Quốc khánh được nghỉ 2 ngày
Về nghỉ lễ, tết (Điều 112), nhiều ĐBQH đề nghị bổ sung thêm 1 ngày nghỉ trong năm có hưởng nguyên lương cho người lao động; có ý kiến đề nghị nếu được Quốc hội quyết định bổ sung 1 ngày nghỉ thì nên chọn ngày nghỉ liền kề ngày Quốc khánh 2-9; có ý kiến đề nghị chọn ngày Gia đình Việt Nam (ngày 28 -6 dương lịch).
UBTVQH đã chỉ đạo xin ý kiến, kết quả có 402 ĐBQH cho ý kiến về nội dung này và có 370 ĐB đồng ý bổ sung 1 ngày người lao động được nghỉ làm việc, hưởng nguyên lương.
UBTVQH đã tiếp thu và ghi trong dự thảo Bộ luật. Đồng thời, mặc dù có ý kiến ĐBQH đề nghị thêm 1 ngày nghỉ nên chọn Ngày Gia đình Việt Nam (28-6). Tuy nhiên, theo UBTVQH, nên chọn ngày liền kề với ngày Quốc khánh 2-9.
Như vậy, ngày Quốc khánh, người lao động sẽ được nghỉ hai ngày. Đây là ngày Tết Độc lập, cũng là dịp để người lao động có thêm thời gian tham gia các hoạt động kỷ niệm, chào mừng Quốc khánh 2-9, tăng thêm ý nghĩa chính trị, nâng cao niềm tự hào dân tộc về sự kiện Chủ tịch Hồ Chí Minh đọc bản Tuyên ngôn độc lập tại Quảng trường Ba Đình, khai sinh nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa, nay là nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam. Đồng thời, đáp ứng được mong muốn của người lao động có thêm thời gian nghỉ ngơi, sum họp gia đình và giúp trẻ em, học sinh, sinh viên chuẩn bị cho ngày khai giảng năm học mới.
Điều 169. Tuổi nghỉ hưu 1. Người lao động bảo đảm điều kiện về thời gian đóng bảo hiểm xã hội theo quy định của pháp luật về bảo hiểm xã hội được hưởng lương hưu khi đủ tuổi nghỉ hưu. 2. Tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường được điều chỉnh theo lộ trình cho đến khi đủ 62 tuổi đối với lao động nam vào năm 2028 và đủ 60 tuổi đối với lao động nữ vào năm 2035. Kể từ năm 2021, tuổi nghỉ hưu của người lao động trong điều kiện lao động bình thường là đủ 60 tuổi 3 tháng đối với lao động nam và đủ 55 tuổi 4 tháng đối với lao động nữ; sau đó, cứ mỗi năm tăng thêm 3 tháng đối với lao động nam và 4 tháng đối với lao động nữ. 3. Người lao động bị suy giảm khả năng lao động; làm nghề, công việc đặc biệt nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm nghề, công việc nặng nhọc, độc hại, nguy hiểm; làm việc ở vùng có điều kiện kinh tế - xã hội đặc biệt khó khăn có thể nghỉ hưu ở tuổi thấp hơn nhưng không quá 5 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 4. Người lao động có trình độ chuyên môn kỹ thuật cao và một số trường hợp đặc biệt có thể nghỉ hưu ở tuổi cao hơn nhưng không quá 5 tuổi so với quy định tại khoản 2 Điều này tại thời điểm nghỉ hưu, trừ trường hợp pháp luật có quy định khác. 5. Chính phủ quy định chi tiết Điều này. |