Trước đó, giải trình về ý kiến đại biểu (ĐB) đề nghị quyết định chỉ tiêu GDP tăng 6,8%-7%, có ý kiến đề nghị nên giữ như năm 2018 từ 6,5%-6,7%, Chủ nhiệm Ủy ban Kinh tế của Quốc hội Vũ Hồng Thanh cho biết, chỉ tiêu tăng GDP năm 2019 đã được tính toán trên cơ sở GDP ước thực hiện của năm 2018 đạt và vượt mức 6,7%. Qua dự báo và các cân đối lớn của nền kinh tế cũng như tham khảo đánh giá của một số tổ chức quốc tế, Chính phủ báo cáo Quốc hội mức tăng GDP 6,6%-6,8% cho năm 2019 là bảo đảm tính thận trọng, hài hòa giữa mục tiêu tăng trưởng và kiềm chế lạm phát, tiếp tục tạo nền tảng ổn định kinh tế vĩ mô và giải quyết các vấn đề xã hội.
Về chỉ tiêu CPI, một số ý kiến đề nghị quyết định chỉ tiêu CPI dưới 4%, có ý kiến đề nghị dưới 4,1%, không ghi “khoảng 4%”, tuy nhiên, Ủy ban Thường vụ Quốc hội cho biết, theo nhiều dự báo, sức ép lạm phát ngày càng lớn. Giá dầu thô đang trong xu hướng tăng, tỷ giá, lãi suất và rủi ro trên thị trường tài chính, tiền tệ quốc tế gia tăng, ảnh hưởng của xung đột thương mại của một số nước.
Trong khi đó, lộ trình tính đúng, tính đủ theo cơ chế thị trường đối với giá điện, dịch vụ giáo dục, y tế, tăng lương tiếp tục được thực hiện. Do vậy, chỉ tiêu tốc độ CPI khoảng 4% là phù hợp, bảo đảm thận trọng trong kiểm soát lạm phát nhưng cũng không thắt chặt chính sách tiền tệ quá mức, góp phần thực hiện đồng thời mục tiêu giữ ổn định kinh tế vĩ mô và kích thích tăng trưởng.
Tuy nhiên, cần lưu ý Chính phủ mục tiêu Quốc hội đã giao tại Nghị quyết số 142/2016/QH13 của Quốc hội về kế hoạch phát triển kinh tế-xã hội 5 năm 2016-2020 là phấn đấu kiểm soát lạm phát 3% vào năm 2020.
Các chỉ tiêu chủ yếu- Tổng sản phẩm trong nước (GDP) tăng 6,6%-6,8%; - Tốc độ tăng giá tiêu dùng (CPI) khoảng 4%; - Tổng kim ngạch xuất khẩu tăng 7%-8%; - Tỷ lệ nhập siêu so với tổng kim ngạch xuất khẩu dưới 3%; - Tổng vốn đầu tư phát triển toàn xã hội khoảng 33%-34% GDP; - Tỷ lệ hộ nghèo (theo chuẩn nghèo tiếp cận đa chiều) giảm 1%-1,5%, riêng các huyện nghèo giảm 4%; - Tỷ lệ thất nghiệp ở khu vực thành thị dưới 4%; - Tỷ lệ lao động qua đào tạo đạt 60%-62%, trong đó tỷ lệ lao động qua đào tạo có văn bằng, chứng chỉ đạt 24%-24,5%; - Số giường bệnh/một vạn dân (không tính giường trạm y tế xã) đạt 27 giường; - Tỷ lệ dân số tham gia bảo hiểm y tế đạt 88,1%; - Tỷ lệ khu công nghiệp, khu chế xuất đang hoạt động có hệ thống xử lý nước thải tập trung đạt tiêu chuẩn môi trường 89%; - Tỷ lệ che phủ rừng đạt 41,85%. |