1. Nỗi nhớ dẫn tôi về làng quê của ngày xa xưa ấy, nơi bắt đầu bằng những chộn rộn từ cuối Chạp. Dân làng đều chung tay góp sức tất bật dọn dẹp từng con đường, ngõ xóm, tân trang nhà cửa đón tết. Tôi chợt yêu từng mái nhà thôn dã vừa được phủ lớp vôi trắng tinh tươm ngày giáp tết để thuộc nằm lòng và hiểu đến tận cùng câu nói cửa miệng xa xưa “đầu năm mua muối, cuối năm mua vôi...”.
Ngày ấy, chưa có các ứng dụng công nghệ như bây giờ, khi chỉ cần nhấc điện thoại lên, một loáng là có thể sắm được cả cái tết. Bởi thế, tất cả đều tìm về chợ quê. Với nếp sinh hoạt thuần nông, chợ tết quê xưa khá đơn sơ với từng lều sạp được dựng lên tạm bợ, bày bán la liệt những mặt hàng nông phẩm, thủ công “tự sản tự tiêu” của những người nông dân chất phác. Họ quẩy hàng đi chợ tết có khi chỉ để bán mấy nếp lá dong, một vài nải chuối xanh, cây mía, trái bưởi hay buồng cau hái ở vườn nhà; người chăn nuôi được thì mang cặp trống thiến, vài con gà mái hoa bán để lấy tiền chi tiêu dịp thời giá đắt đỏ.
Cứ vào độ 25 tháng Chạp trở đi, tôi vẫn thường có thói quen theo chân mẹ đi chợ tết. Chen lách qua những cành đào trơ mình chịu rét trong lấm tấm mưa phùn, bắt gặp những chú tò he lung linh sắc màu được tạo hình ngộ nghĩnh; những ánh mắt trẻ thơ vừa háo hức, vừa lạ lẫm được mẹ dắt đi giữa ồn ã tiếng chào mua. Nhiều người vẫn thường bảo, chưa đi chợ tết quê là chưa hiểu hết tết. Quả như vậy, đi chợ để vừa thăm thú thưởng ngoạn, vừa quan sát chiêm nghiệm mà nhận thấy hiếm có một không gian nào mà vị tết hương xuân lại tề tựu đủ đầy và vun thành một cảm thức tết nồng nã đến vậy.
Tết quê xưa, từ trong ký ức ấu thơ, tôi thương đến nghẹn lòng nỗi nhọc nhằn, âu lo của mẹ cha hòa lẫn trong tiếng thở dài thành câu cửa miệng mỗi khi tết đến: “Lại tết rồi. Con nít thì mừng, người lớn thì lo”. Và rồi lại tìm thấy trong ánh mắt mẹ lấp lánh niềm vui khi cũng đắp đổi được bằng dăm cái bánh chưng, vài cân thịt cho con trẻ. Tôi yêu những món ăn dân dã từ nồi thịt kho tàu đẫy vị, hũ dưa món lạ miệng bắt cơm được bàn tay mẹ nâng niu, gửi gắm bằng cả ân tình.
2. Những ngày cuối Chạp, như một thói quen được lập trình, tôi chưa hề quên việc theo chân bố đi tảo mộ, tỉ mẩn cắt tỉa từng đám cỏ, sửa sang lại mộ phần ông bà, thay cát mới cho lư hương trên bàn thờ gia tiên... Những việc làm hiếm hoi mỗi cuối năm đều đặn lặp lại, song, vẫn dậy lên trong tâm thức tôi bao xúc cảm thật khó gọi tên.
Ở quê, ngày cuối năm hàng xóm láng giềng vẫn duy trì thông lệ đánh đụng con bê, con lợn chia nhau ăn tết. Đành rằng mỗi nhà có thể tự chủ động mua sắm, nhưng từ lâu nét sinh hoạt này đã trở thành sợi dây gắn kết nghĩa xóm tình làng, giúp mọi người có dịp gần nhau hơn, nhỡ có xích mích gì cũng dễ dàng hỉ xả, như tâm niệm đầy vị tha “giận gần chết ngày tết cũng thôi”.
Chiều 30 tết, mẹ thường chuẩn bị sẵn một nồi nước tắm được nấu bởi các loại cây mùi già, bạc hà, lá bưởi, khuynh diệp… để các thành viên tắm gội. Mẹ bảo, người xưa quan niệm ngày cuối năm được gột rửa bằng thứ “nước thơm” ấy sẽ giúp người người trút bỏ được những gì năm cũ còn sót lại, đặc biệt là những ước nguyện chưa tròn hay những nỗi muộn phiền còn lẩn khuất canh cánh trong tâm tư...
Những mùa xuân cũ, quên sao được cảm xúc rưng rưng khi nhìn từng làn khói bếp mùa xuân chầm chậm len bay trên mỗi mái nhà. Trong mái ấm đơn sơ ấy là sự quây quần xôm tụ bên mâm cơm đoàn viên để bao câu chuyện gần xa, vui buồn được tụ về nhỏ to san sẻ, để trả nợ lòng mình cho nhẹ nhõm, an yên.
Giữa bộn bề cuộc sống hiện đại hôm nay, những cái tết vội vàng và giản tiện cứ tiếp nối theo về. Từ trong thẳm sâu ký ức, tôi chợt chạnh lòng thương nhớ nôn nao một bếp lửa đượm nồng tí tách reo vui, một tiếng pháo giao thừa rộn rã cả góc làng, một thoáng hương trầm quyện vòng khắc khoải chiều 30. Những điều làm nên cảm thức tết đặn đầy một thuở đã từ lâu trôi vào xa vắng…
NGÔ THẾ LÂM
Nha Trang, Khánh Hòa