Tôi nhớ cách đây mấy chục năm, hồi đó ba tôi 77 tuổi đột nhiên làm những việc khác thường. Đó là việc đi bốc mộ ông bà cố tôi ở xa đưa về một khu đất cao, đẹp ở gần nhà. Sau đó ông lại tiếp tục di dời mộ ông, bà nội và má tôi ở dưới ruộng lên nằm gần ông, bà cố tôi, rồi định vị cho con cháu biết chỗ ông sẽ nằm khi an giấc ngàn thu... Làm việc ấy xong ba tôi sai vợ thằng Út Mỹ làm một bữa cơm cúng ông bà rồi cho gọi tất cả anh em tôi về để bàn một việc, đại khái như: Để các con khỏi lúng túng, khi ba tôi có theo ông theo bà thì giao việc thờ cúng ông, bà ngoại tôi cho anh Hữu, ông bà cố giao cho con Diệu, ông bà nội giao cho thằng Út Mỹ, còn tôi được giao cho thờ má tôi và dĩ nhiên sẽ thờ ba tôi khi ông qua đời.
Ba tôi nói thêm rằng trong nhà có bàn thờ có hương khói nhà sẽ ấm cúng, Tết nhất mà bàn thờ tươm tất bánh trái, hoa quả, nhang đèn sẽ làm cho gia đình có sinh khí Tết, để mà rước lộc năm mới. Cuối cùng ba tôi xúc động rồi nhấn mạnh mấy ý: “Để anh em tụi bây có ông bà, cha mẹ chung mà lui tới với nhau và mỗi đứa cũng có cái bàn thờ riêng để thực hiện chữ hiếu của mình”. Năm tháng sau ba tôi qua đời.
Bốn anh em tôi mỗi người có một hoàn cảnh khác nhau. Nhà tôi ở thành phố Bạc Liêu, thằng Út Mỹ được thừa hưởng căn nhà cũ kĩ của ba tôi để lại, còn anh Hữu và con Diệu ở “chùm nhum” trên mảnh đất của ba tôi ở gần đó. Đó là một cái xóm heo hút cách chợ Bạc Liêu gần 8 cây số. Dù ở chợ hay ở quê, dù khá giả hay nghèo hèn, từ khi ba tôi qua đời, nhà anh em tôi đều có cái bàn thờ trang trọng ở giữa nhà trước. Mỗi lần giỗ kỵ là bốn nhà tập trung, với tinh thần nhà của anh em khác nhưng cúng là cúng ông bà của cá nhân mình. Thường thì cánh đàn bà tập trung bữa trước. Đó là chị dâu, em chồng, em dâu bàn bạc nấu nướng món gì rồi “hè” nhau gói bánh, tiếng cười như bắp rang, tối họ nằm gác chân lên nhau mà nói chuyện thời con gái. Còn cánh đàn ông phân công chạy bàn và tiếp khách.
2.
Hàng năm khi sắp Tết tôi hay lân la theo các bà vợ của mình và của anh em gói bánh để “hưởng” cái sinh khí Tết trong lúc gió xuân đang bay nhảy trên đồng. Đó cũng là dịp tôi mua một ít quà để cùng anh em chưng dọn sắp xếp bàn thờ. Đêm giao thừa cả nhà tôi lớn nhỏ đều thức rồi dọn cỗ, bánh mứt, thắp nhang lạy ông bà, cha mẹ. Đó là lúc thật lạ, trong cái đêm trừ tịch, trong cái thời khắc thiêng liêng của năm cũ chuyển sang năm mới tôi quỳ trước bàn thờ rồi nhìn lên di ảnh của ba má tôi, bỗng thấy thương đời cha mẹ mình nghèo nuôi mình lớn lên bằng những công cấy mướn dầm mưa đến đỏ đèn, từ những ngày đập lúa đến tóe máu tay... Đến khi khôn lớn, làm ăn khá giả thì cha mẹ lại vội đi thật xa, có muốn báo hiếu cũng không làm sao được. Thế là vừa lạy, vừa ứa nước mắt và cũng chợt nhận ra tục lạy ông bà đêm giao thừa nó còn dạy ta làm người. Nó nhắc ta nhớ công ơn của người trước, cho ta một nhân cách, một tâm hồn. Đó là tâm hồn, là nhân cách của kẻ biết trước biết sau.
Thường thì hừng đông ngày mồng một Tết tôi và ba đứa con có mặt ở quê. Mấy chục năm nay không có sự thay đổi, đó là cuộc hành trình để tôi về làm chữ hiếu và để các con tôi về với gốc rễ của chúng. Cha con tôi thắp nhang lạy nội, ngoại rồi ăn một bữa cơm, uống một ly rượu ở nhà anh em trong một ngày mới tinh khôi. Xong rồi, dứt khoát tôi phải ăn với thằng Cảnh, anh em cô cậu ruột của tôi một bữa cơm. Nó là thằng nghèo nhất dòng họ, ăn cơm đạm bạc với nó, uống với vợ chồng nó một ly rượu, chúc Tết một câu, vậy mà mắt vợ chồng nó lấp lánh niềm vui. Đời em mình nghèo, tặng nhau một niềm vui thì đời ta là mùa xuân vậy.
Sau đó cha con tôi đi thắp nhang mừng tuổi ông bà ở nhà bà con dòng họ và láng giềng ở xóm cũ rồi về nhà vào khoảng 11 giờ trưa. Ở nhà tôi lúc bấy giờ đã đặc cứng người. Anh em ruột đến đủ cả vợ lẫn chồng, lại thêm vợ chồng con cháu của họ, hầu như Tết nào gia đình tôi cũng có trách nhiệm dọn một mâm cỗ cho ít nhất 50 người. Anh em, dòng họ, láng giềng lâu lâu mới được ngồi với nhau vào ngày mới, thế là uống. Chị dâu cụng ly em chồng, em gái cụng ly anh trai, cháu chúc chú phát tài năm mới. Họ kể với nhau không biết bao nhiêu chuyện vui buồn trong năm...