Và sau quá trình tiếp thu những ý kiến tại kỳ họp thứ 6, chỉnh lý bổ sung, dự thảo thực sự đã mở rộng phạm vi thông tin được tiếp cận, góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của công dân theo quy định của Hiến pháp. Đơn cử, dự thảo quy định về thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử tối đa là 5 năm (quy định trước đây là 10 năm) nhưng tính từ năm tài liệu được nộp vào lưu trữ hiện hành và áp dụng thống nhất cho cả tài liệu giấy và tài liệu số.
Việc rút ngắn thời hạn nộp tài liệu vào lưu trữ lịch sử góp phần bảo đảm tốt hơn quyền tiếp cận thông tin của công dân và phát huy giá trị của tài liệu lưu trữ; hạn chế tình trạng thất thoát tài liệu lưu trữ vĩnh viễn và giúp bảo quản tài liệu lưu trữ tốt hơn. Không những thế, quy định này còn góp phần hiệu quả giúp nhân dân thực hiện quyền giám sát các hoạt động của cơ quan nhà nước.
Dự thảo luật trao quyền cho Bộ Quốc phòng, Bộ Công an, Bộ Ngoại giao quản lý và lưu trữ tài liệu hình thành trong quá trình hoạt động, tài liệu lưu trữ dự phòng, tài liệu lưu trữ có giá trị đặc biệt và cơ sở dữ liệu tài liệu lưu trữ của ngành quốc phòng, công an, ngoại giao nhưng hàng năm phải lập mục lục hồ sơ, tài liệu lưu trữ vĩnh viễn thuộc phạm vi quản lý và cập nhật, gửi Bộ Nội vụ. Quy định này góp phần lấp đầy khoảng trống thông tin về một số lĩnh vực quan trọng trong quản lý xã hội. Bên cạnh đó, dự thảo quy định người đứng đầu cơ quan, tổ chức, lưu trữ lịch sử có trách nhiệm công khai danh mục hồ sơ, tài liệu lưu trữ trên cổng thông tin điện tử, trang thông tin điện tử và thực hiện công bố tài liệu lưu trữ thuộc thẩm quyền quản lý.
Có thể thấy việc dự thảo xác định rõ yêu cầu đối với chủ thể có nghĩa vụ chủ động cung cấp thông tin có sẵn một cách thường xuyên, ngay cả khi không có yêu cầu của nhân dân, cũng góp phần đảm bảo quyền tìm kiếm thông tin - một trong những nội hàm của quyền tiếp cận thông tin.