Nhân kỷ niệm 47 năm Ngày giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước (30-4-1975 – 30-4-2022), Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng đã có cuộc trả lời phỏng vấn Báo SGGP về giá trị của hòa bình, về ý nghĩa nhân văn của Chiến dịch 30-4, nỗ lực đóng góp của Việt Nam với nền hòa bình thế giới.
>> Clip phỏng vấn Thượng tướng Nguyễn Chí Vịnh, nguyên Thứ trưởng Bộ Quốc phòng
* Phóng viên: Thưa Thượng tướng, mỗi năm, đến ngày kỷ niệm chiến thắng giải phóng miền Nam, thống nhất đất nước 30-4, hồi ức và cảm xúc của ông chắc hẳn có rất nhiều đặc biệt. Ông có thể chia sẻ?
* Thượng tướng NGUYỄN CHÍ VỊNH: Vào dịp kỷ niệm Chiến thắng 30-4, tôi cũng như bất cứ ai, đều có cảm nhận riêng của mình, và cứ mỗi năm lại có cảm nhận khác nhau. Đến ngày vinh quang đó, có những người mẹ, người vợ lại đứng trước bàn thờ thắp nén hương cho người hy sinh. Chính gia đình tôi cũng là một cảnh tượng như thế. Tôi nhớ ngày 30-4-1975, khi ấy tôi còn học phổ thông. Tất cả mọi người ùa ra đường và hò reo “thống nhất rồi, hòa bình rồi”. Đó là niềm vui tự phát của người dân và những đứa trẻ như chúng tôi cũng hò reo đến phát cuồng. Vô cùng vui mừng vì đất nước thống nhất và có được hòa bình. Nói như vậy để thấy được giá trị cao nhất của một đất nước, một dân tộc là thống nhất, độc lập dân tộc và hòa bình.
Ngày nay nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ, để bảo vệ một đất nước, giá trị tối thượng của đất nước là bảo vệ sự thống nhất, độc lập dân tộc và hòa bình. Những giá trị đó không hơn kém nhau hay ngang nhau mà là điều không thể thiếu. Độ lùi thời gian đã dạy cho tôi điều đó và hiện nay mỗi một người từ già đến trẻ đều nhìn thấy bài học đó. Chúng ta đã đổ biết bao xương máu thì cũng để đạt điều đó mà thôi. Bây giờ, chúng ta đang nỗ lực xây dựng đất nước giàu mạnh hơn, đẹp hơn… nhưng không được quên các yếu tố cơ bản, giá trị cốt lõi của một dân tộc phải giữ cho bằng được, đó là toàn vẹn lãnh thổ, độc lập dân tộc và hòa bình.
Quay lại năm 1954, chúng ta có hòa bình nhưng cả nước chưa ai ngủ yên vì đất nước chưa thống nhất. Có hòa bình mà chưa thống nhất thì điều đó không đủ, không trọn vẹn. Ngược lại thử hình dung sau năm 1975, chúng ta có được thống nhất rồi mà không đi tới ổn định từng bước, không hòa hợp, hòa giải dân tộc để có được hòa bình, ổn định cho người dân thì thống nhất đó cũng vô nghĩa. Ngày nay nhìn lại, chúng ta càng thấy rõ, để bảo vệ một đất nước, giá trị tối thượng của đất nước là bảo vệ sự thống nhất, độc lập dân tộc và bảo vệ hòa bình. Những giá trị đó không hơn nhau hay ngang kém nhau mà là không thể thiếu.
* Thưa thượng tướng, chiến thắng 30-4 còn có một giá trị rất đặc biệt, đó là tính nhân văn. Ông có thể chia sẻ thêm về giá trị này?
* Nói về ngày 30-4 thì chúng ta hãy nói về niềm tin tất thắng của toàn dân tộc khi chúng ta tiến hành cuộc kháng chiến. Tôi là học trò của ông Ba Quốc - Thiếu tướng Đặng Trần Đức, Anh hùng Lực lượng vũ trang nhân dân, nhân vật xuất chúng của ngành tình báo, một người hoạt động trong lòng địch. Tôi được ông Ba Quốc kể, trong các bức điện của cơ quan Tình báo gửi ông Ba, ngay từ năm 1968 - chiến dịch Mậu thân - để chuẩn bị giải phóng Sài Gòn, tổ chức đã luôn có yêu cầu đánh thế nào để không hủy diệt Sài Gòn mà giải phóng Sài Gòn, nhưng thành phố cơ bản vẫn còn nguyên vẹn, người dân không bị thiệt mạng…
Năm cánh quân với hàng triệu quân tiến về Sài Gòn mạnh như vũ bão, đó là lần đầu tiên và duy nhất trong cuộc chiến tranh chống Mỹ, lực lượng của ta mạnh hơn, nhiều hơn của đối phương, kể cả về quân số, trang thiết bị, hậu cần, vũ khí, đạn dược. Có nghĩa là có thể “san phẳng, đè bẹp” Sài Gòn, nhưng chúng ta đã không lựa chọn phương án ấy, mà đã lựa chọn cách ngày nay chúng ta đều nhìn thấy là Sài Gòn không bị phá hủy. Những tòa nhà, những con đường nguyên vẹn, không có vết đạn pháo rơi trên đường, không có cảnh người dân bị chết hàng loạt sau một cuộc chiến lớn như thế. Quân đội Sài Gòn khi đó không hề yếu ớt, chống cự rất ác liệt. Chúng ta hy sinh rất nhiều chứ không phải tự nhiên kéo được xe tăng vào Sài Gòn. Nhưng chúng ta đã chọn cách đánh để sao có thể giữ nguyên được Sài Gòn và bảo vệ tính mạng của người dân. Đó là điều chúng ta phải thấy được tính nhân văn trong cách tiến hành giải phóng Sài Gòn của chúng ta ngày 30-4-1975.
Tổng thống chính quyền Sài Gòn Dương Văn Minh đã tuyên bố đầu hàng vì 2 yếu tố, thứ nhất là sức mạnh của quân Giải phóng, ông ấy biết sức mạnh đó là không thể ngăn cản, và có thể hủy diệt toàn bộ quân đội Sài Gòn. Thứ hai, Dương Văn Minh là người đã được tình báo của quân đội ta kết nối từ nước, đề nghị mở 1 con đường để ông ấy thay mặt Chính phủ Sài Gòn tuyên bố đầu hàng càng sớm càng tốt để giảm thiệt hại xương máu cho cả 2 bên. Đó là điều chúng ta cần ghi nhận sự đóng góp của ông ấy vào phút chót.
Vì thế, khi quân đội ta tiến vào Sài Gòn, người dân Sài Gòn - dù họ không hiểu hết, nhưng hàng triệu người vẫn ùa ra đường vẫy cờ hoa đón chào. Vì sao? Vì người dân thực sự cảm nhận có hòa bình, họ không bị tổn thương. Giả sử, nếu người dân bị bom đạn làm thương vong nhiều, Sài Gòn bị tơi tả dưới bom đạn, liệu họ đón chào quân giải phóng như thế hay không?
Sài Gòn có được như hôm nay, đổi mới rất nhiều là cũng nhờ có chủ trương của đội quân cách mạng khi đó: giải phóng Sài Gòn nhưng không hủy diệt, không làm người dân thiệt mạng. Người dân TPHCM hôm nay phải nhìn ngày 30-4 ở khía cạnh ấy. Nhà thờ Đức Bà, Bảo tàng, chợ Bến Thành và rất nhiều công trình lịch sử khác… vẫn còn nguyên vẹn sau cuộc chiến. Đó chính là điều vĩ đại của chiến dịch 30-4.
Sau này, ở các cuộc chiến tranh công nghệ cao, tính sát thương cao, vũ khí thông minh rất chính xác, nhưng hậu quả các cuộc chiến đều rất khốc liệt và chúng ta vẫn đang nhìn thấy nhiều người dân thiệt mạng, những thành phố, những đất nước tan hoang... Nhìn lại chiến dịch 30-4, chúng ta với vũ khí thông thường, nhưng Sài Gòn vẫn nguyên vẹn sau chiến dịch giải phóng miền Nam 30-4, không phải ngẫu nhiên mà được như thế, tất cả đều do chủ trương của chúng ta.
* Mỗi dịp 30-4, chúng ta lại trăn trở vấn đề hòa hợp dân tộc. Thượng tướng có suy nghĩ gì về vấn đề này?
* Mỗi dịp 30-4, chúng ta lại trăn trở: chúng ta đã có hòa hợp dân tộc chưa? Quan điểm của tôi là có rồi, mặc dù bên cạnh đó vẫn còn những điều chưa thực sự trọn vẹn. Nhưng nếu không hòa hợp dân tộc thì làm gì có quốc gia 63 tỉnh thành tự do rộng mở như thế này; không còn phân biệt tiếng Bắc, Trung, Nam; không còn phân biệt vùng miền và tất cả mọi người đều có quyền công dân của mình. Đó chính là hòa hợp, hòa giải dân tộc. Đầu tiên tôi nghĩ rằng chúng ta cần phải hiểu hòa giải, hòa hợp dân tộc là gì? Đó là quyền tự do của mỗi con người, nhưng quyền tự do đó phải nhằm mục đích xây dựng đất nước hòa bình ổn định, mạnh lên, không phải là quyền con người để anh làm cho đất nước yếu đi hay bất ổn.
Quay lại năm 1975, khi mới giải phóng, biết bao ý đồ lật ngược lại chiến thắng của chúng ta, lật đổ chính quyền cách mạng, một lần nữa xương máu lại đổ, họ dựa vào nước ngoài để tổ chức bao nhiêu âm mưu phá hoại, khiến chúng ta phải dùng bạo lực cách mạng để trấn áp những hành động đó. Anh dựa vào nước ngoài để lật đổ chính quyền hợp pháp do nhân dân bầu ra là phá hoại chứ không phải mong muốn hòa hợp dân tộc. Đấy là đòi hỏi hòa hợp dân tộc hay phá hoại hòa hợp dân tộc? Chúng ta đã từng bước để hoàn thiện khái niệm cũng như tiến trình hòa hợp hòa giải dân tộc, nhưng tôi cho rằng chúng ta đã thực sự có hòa giải dân tộc.
Chúng ta đều biết, khi quan điểm trái ngược nhau, người ta hay nói tới bộ phận kiều bào ở nước ngoài trước đây làm việc cho chính quyền Sài Gòn, họ có những suy nghĩ, những phát ngôn rất nặng nề về vấn đề hòa hợp, hòa giải dân tộc. Họ nói những lời nói cay độc, thù oán về vấn đề này. Đến giờ chúng ta “chữa” bằng cách nào? Với chính sách đối ngoại rộng mở, chúng ta làm bạn với tất cả các nước, bình thường hóa quan hệ với Mỹ, hợp tác với Mỹ ở rất nhiều lĩnh vực và không bao giờ chúng ta quên bảo vệ quyền lợi của người Việt ở trong nước cũng như kiều bào ở nước ngoài. Từ khi chúng ta bình thường hóa quan hệ với Mỹ, sự chống đối, những tiếng nói ngược chiều ngày càng ít đi. Bản thân tôi đã nhận thấy rất rõ điều này trong những lần sang Mỹ công tác, khi mà câu chuyện biểu tình của một số người Việt bên đó ngày càng giảm xuống và xa lạ hơn với kiều bào ta ở bên đó.
Tôi muốn nhấn mạnh, quan hệ đối ngoại của chúng ta rộng mở, đa phương hóa, đa dạng hóa, chúng ta không quên quá khứ nhưng bỏ qua quá khứ để xây dựng mối quan hệ tốt đẹp hướng tới tương lai. Đường lối đó không chỉ có giá trị về kinh tế xã hội thông qua hợp tác với các cựu thù, mà còn là liều thuốc chữa lành nỗi đau trong lòng người phải xa Tổ quốc vì hậu quả của chiến tranh. Bây giờ, họ về Việt Nam với một tâm thế rất vui mừng, thoải mái và tâm lý thù địch ngày càng ít đi. Đó chính là hòa giải, hòa hợp dân tộc, là chung tay xây dựng đất nước…
* Ngày nay, khi hòa bình thế giới bị đe dọa, tức là hòa bình Việt Nam bị đe dọa. Vậy theo Thượng tướng, là một quốc gia có trách nhiệm, Việt Nam có thể làm gì để đóng góp cho hòa bình, ổn định, an ninh thế giới, và đó cũng là lợi ích của Việt Nam, nhất là trong công tác ngoại giao?
* Ngày nay, xu thế chung của thế giới là hòa bình, hợp tác, phát triển. Có thể thấy nguyện vọng chung của nhân loại là như vậy. Nhưng thực tế thế giới hiện nay chưa có hòa bình thực sự, chưa có hợp tác thực sự trên cơ sở luật pháp quốc tế. Điều đó ảnh hưởng rất lớn đến sự phát triển của toàn thế giới, đặc biệt là những nước đang còn nghèo, điều đó tất yếu dẫn tới việc cuộc sống của những người dân thuộc bộ phận rất lớn của thế giới càng ngày càng khó khăn hơn.
Như vậy, xu thế chung, nguyện vọng của toàn nhân loại là hòa bình, ổn định và phát triển nhưng thực tế không được như vậy. Vì sao? Điều này xuất phát từ bất ổn của khu vực, từ tham vọng của các quốc gia, nhất là những nước lớn muốn sử dụng sức mạnh cường quyền để đạt được tham vọng của mình, họ đã vượt ra khỏi khuôn khổ của đời sống hiện đại đó là luật pháp quốc tế; đi ngược lại quy luật cổ xưa của nhân loại là đạo lý quốc tế. Tham vọng dùng vũ lực để thu lợi về mình đi ngược lại quy luật ngàn đời của nhân loại là đạo lý, cũng đi ngược lại quy luật của cuộc sống hiện đại là luật pháp quốc tế. Có những nơi tưởng như không bao giờ có chiến tranh, nhưng giữa lòng châu Âu là Nga và Ukraine hiện nay đã có chiến tranh. Dù đó là chiến sự xảy ra ở một khu vực cục bộ là Ukraine, nhưng thực ra chiến tranh đã lan ra toàn châu Âu và ảnh hưởng tới toàn cầu.
Trong bối cảnh đó, Việt Nam chúng ta không đứng ngoài câu chuyện này. Chúng ta phải nhìn nó như một nhân tố ảnh hưởng tới hòa bình của đất nước. Ví dụ vấn đề biển Đông, chúng ta gọi là Thái Bình Dương từ bao nhiêu năm nay nhưng rõ ràng là chưa thái bình mà vẫn tiềm ẩn nguy cơ bất ổn. Vậy trong xu thế bất ổn đó, biết đâu lại có những bất ổn rất gần mình, hoặc bất ổn từ xa nhưng cũng có thể sẽ đến rất nhanh, vậy thì Việt Nam làm thế nào để tự bảo vệ mình và đóng góp cho hòa bình và an ninh của thế giới?
Theo tôi, việc đầu tiên để Việt Nam có thể đóng góp cho hòa bình, ổn định của thế giới là đất nước chúng ta phải hòa bình, phải ổn định và phát triển. Một đất nước không hòa bình, không ổn định, phát triển thì không có gì để đóng góp cho hòa bình, ổn định của thế giới cả. Trách nhiệm của chúng ta cũng như mỗi nước là phải tự xây dựng đất nước mình. Đó là đóng góp đầu tiên. Đó không phải là lợi ích cục bộ, mà tất cả các nước đều như vậy thì rõ ràng thế giới sẽ tốt hơn.
Thứ hai, chúng ta tự hào vì Việt Nam có chính sách đối ngoại hòa bình, hữu nghị, đúng đắn, gần như trở thành nơi để soi vào mỗi khi thế giới có bất ổn. Người ta thấy Việt Nam đã trải qua bao cuộc chiến tranh, đối đầu với bao thử thách nhưng đất nước Việt Nam vẫn hòa bình, ổn định. Quan hệ đối ngoại của Việt Nam là đa phương hóa, đa dạng hóa và là bạn với tất cả các nước. Chúng ta chia sẻ lợi ích với các nước trên cơ sở luật pháp quốc tế và tôn trọng lợi ích của các quốc gia. Việc này đem lại lợi tích tự thân cho đất nước mình nhưng tỏa ra năng lượng để đóng góp cho hòa bình của khu vực và thế giới.
Tuy nhiên như vậy chưa đủ. Mỗi quốc gia trong thời đại toàn cầu hóa thì không thể tự mình chỉ lo cho mình, mà chúng ta phải tích cực tham gia vào các vấn đề của thế giới. Việt Nam đã tham gia tích cực, chủ động và có bản lĩnh trong diễn đàn của Liên hiệp quốc, các vấn đề của thế giới. Chúng ta tham gia vào các hoạt động nhân đạo như gìn giữ hòa bình, hợp tác phát triển, thực hiện các chương trình Thiên niên kỷ của Liên hiệp quốc rất tích cực và chủ động. Trước đây chúng ta chỉ là người đi theo, người hưởng ứng thì bây giờ trong một số lĩnh vực, chúng ta là người đi đầu, là người dẫn dắt cuộc chơi, ví dụ như trong vấn đề hợp tác Thiên niên kỷ, bảo vệ môi trường biển, bảo vệ ổn định an toàn của biển thì Việt Nam luôn là một quốc gia có tiếng nói mạnh mẽ trên diễn đàn của thế giới.
Khi chúng ta nói nhiều về khát vọng hòa bình thì cũng có nghĩa là nguy cơ bất ổn đã đâu đó xuất hiện. Nguy cơ chiến tranh đang chực chờ đe dọa. Trong bối cảnh đó, càng cần tích cực đóng góp vào vấn đề hợp tác an ninh của thế giới để đảm bảo hòa bình, đảm bảo luật pháp được tuân thủ. Việt Nam có những mối quan hệ song phương với các quốc gia, trên các diễn đàn đa phương luôn có tiếng nói rộng rãi đấu tranh cho hòa bình. Đồng thời, có những hành động thực tế để giúp cho khu vực ổn định hơn, như trong lĩnh vực tìm kiếm cứu nạn, chống khủng bố, vấn đề an ninh biển… Đó là đóng góp của Việt Nam cho hòa bình, ổn định.
Khi chúng ta nói đến hòa bình nghĩa là nguy cơ chiến tranh đã đâu đó nhìn thấy và chúng ta phải đấu tranh với nó, đẩy lùi nó. Việt Nam xây dựng đất nước hòa bình, ổn định, có chính sách đối ngoại rộng mở, hòa hiếu, tuân thủ luật pháp quốc tế và lợi ích của tất cả các quốc gia. Nhưng không được quên là đất nước ta phải mạnh lên, thế trận quốc phòng ngày càng phải vững chắc hơn. Chỉ có như thế thì tiếng nói của chúng ta mới có tác dụng, hành động của chúng ta mới được thế giới ủng hộ. Một đất nước yếu, dễ bị tổn thương, xâm hại thì tiếng nói không có trọng lượng. Vì vậy, để đóng góp cho hòa bình, ổn định, an ninh thế giới thì chúng ta phải mạnh lên, phải có nền quốc phòng vững chắc hơn. Như vậy là chúng ta đã gắn hòa bình ổn định, an ninh của đất nước với hòa bình ổn định, an ninh của thế giới, và ngược lại, chúng ta cũng gắn hòa bình ổn định, an ninh của thế giới với chính mình. Đó là quy luật của cuộc sống. Chúng ta không thể một mình mà chúng ta phải chung tay bảo vệ hòa bình.
* Việt Nam đã chiến thắng trong các cuộc chiến tranh bảo vệ Tổ quốc, để kiến lập nền hòa bình bền vững cho đất nước. Bài học “3 không” trong chính sách quốc phòng của Việt Nam, đó là không liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự, không cho nước ngoài sử dụng lãnh thổ nước mình để chống lại nước thứ ba ngày càng trở lên giá trị. Xin Thượng tướng chia sẻ thêm về bài học này của Việt Nam?
* Về chính sách quốc phòng của Việt Nam, có lẽ tôi cần diễn giải Sách trắng quốc phòng chính xác hơn một chút, là “3 không” hay “4 không”?
Chính sách quốc phòng của Việt Nam là hòa bình và tự vệ, và nguyên tắc chung mang tính chất phổ quát của thế giới trong quan hệ quốc tế là không sử dụng vũ lực. Đây là vấn đề chung của thế giới. Với Việt Nam, trên cơ sở nguyên tắc chung ấy chúng ta có “3 không” là không tham gia liên minh quân sự, không cho nước ngoài đặt căn cứ quân sự tại Việt Nam, không cho ai sử dụng lãnh thổ nước ta để gây phương hại cho một nước thứ 3. Nhưng nói thế chỉ là một nửa, tức là phía ta như vậy nhưng đó cũng chính là yêu cầu của ta với bất kỳ một quốc gia nào mà Việt Nam có quan hệ. Ví dụ, khi tôi có quan hệ với anh thì thứ nhất, anh đừng lôi tôi vào các liên minh quân sự; thứ 2 là anh không được cho nước ngoài sử dụng đất nước anh để chống lại đất nước tôi. Đây là chủ trương của đất nước ta nhưng cũng là đòi hỏi của Việt Nam với những quốc gia mà chúng ta có quan hệ. Vậy trong lúc đất nước khó khăn thì chủ trương này liệu có đứng vững không? Tôi tin là luôn luôn đứng vững, vì kinh nghiệm của chính chúng ta. Ít nước trên thế giới là nước nhỏ như Việt Nam mà trải qua những cuộc chiến tranh khốc liệt như trong thế kỷ XX, nhưng chúng ta đều đánh thắng. Bài học là gì? Là chúng ta phải độc lập, tự chủ. Chúng ta cứ nghiêng về bên nào cũng sẽ thất bại - đó là bài học ngàn đời, đừng bao giờ quên và chúng ta tự tin với chủ trương 3 không này. Cốt lõi chính là độc lập, tự chủ để bảo vệ tổ quốc mình.
Cũng cần nói thêm, nhìn lại trong các cuộc chiến tranh trước đây, nếu không có bạn bè quốc tế giúp đỡ thì chúng ta khó có thể thắng hết thực dân Pháp, đế quốc Mỹ rồi đến cuộc chiến tranh 2 đầu biên giới. Nhưng cần nhìn nhận đúng, là sức ta giải phóng cho ta như Bác Hồ nói. Nội lực đất nước là cơ bản, quyết định. Bây giờ cũng vậy, chúng ta phải sử dụng nội lực đất nước để tự bảo vệ mình. Nếu quên đi điều này, chỉ mong chờ từ bên ngoài trợ giúp, quên đi năng lực của chính mình thì sẽ có lúc chúng ta thất bại. Đó là giá trị “3 không” của Sách trắng quốc phòng.
Tôi cho rằng, không chỉ lúc khó khăn mà ngay cả những lúc thuận lợi, rất thuận lợi, chúng ta cũng cần sự hỗ trợ và hợp tác quốc tế. Việt Nam đang bình yên như thế này, nhưng nếu thế giới quay lưng lại thì liệu chúng ta có phát triển được không? Không phát triển được. Vì thế, sự hỗ trợ, hợp tác quốc tế một cách tốt đẹp, sự ủng hộ của cộng đồng quốc tế của bạn bè, những bạn bè thủy chung, gắn bó là không thể quên, không thể thiếu.
* Xin cảm ơn Thượng tướng!