Cần có quy chuẩn
Cũng giống như các đô thị lớn khác ở Việt Nam, đi cùng sự phát triển, TPHCM đang phải đối mặt với những nguy cơ về ÔNKK. Nó đang gây ra rất nhiều tác động tới sức khỏe, hệ sinh thái và khí hậu. Đặc biệt, ô nhiễm bụi ở TPHCM đang ở mức báo động, gây ra nhiều bệnh về đường hô hấp, ung thư.
Theo nghiên cứu của Viện TN-MT, Trường Đại học Quốc gia TPHCM, các khí gây ÔNKK như bụi PM 2.5, NO2, SO2, CO... đều vượt ngưỡng cho phép từ 1,5-2 lần theo quy chuẩn Việt Nam. ÔNKK ở TPHCM mỗi năm gây tử vong khoảng 1.397 người.
PGS-TS Hồ Quốc Bằng, Giám đốc Trung tâm Nghiên cứu ÔNKK và Biến đổi khí hậu, Viện TN-MT, cho rằng ÔNKK ở TPHCM phần lớn là do khí thải nhà kính từ hoạt động giao thông, sử dụng năng lượng, hoạt động sản xuất công nghiệp và xây dựng. Trong đó, mức thải khí nhà kính trong lĩnh vực giao thông (từ mô tô, xe máy) chiếm 65,4% và sử dụng năng lượng chiếm 91% tổng lượng phát thải.
PGS-TS Hồ Quốc Bằng cho biết thêm, có một thực tế là các tiêu chuẩn quy định đối với vấn đề quản lý chất lượng không khí của Việt Nam còn ít nghiêm ngặt so với các nước trên thế giới. Việt Nam có những tiêu chuẩn cao hơn gấp đôi so với WHO, như đối với PM10 (Việt Nam 50, WHO 20) và PM2.5 (Việt Nam 25, WHO 10). Vì vậy, quy chuẩn phân vùng khí thải ô nhiễm của Việt Nam cần được quy định chi tiết, rõ ràng và nghiêm ngặt hơn. Nên đưa ra một tải lượng xả thải cụ thể, thay vì nồng độ xả thải.
TPHCM nói riêng và các địa phương nói chung ở Việt Nam cần thực hiện tính toán tải lượng cho phép mà môi trường không khí có thể tiếp nhận (pha loãng và khuếch tán) dựa vào quy hoạch vùng, quy hoạch kinh tế xã hội và điều kiện khí tượng của khu vực để đảm bảo phát triển kinh tế không làm ảnh hưởng đến môi trường không khí.
Đẩy mạnh kiểm kê phát thải
Thời gian qua, để giải quyết tình trạng ÔNKK, thành phố cũng đã đẩy mạnh việc thực hiện các chiến dịch truyền thông, nâng cao nhận thức và trách nhiệm bảo vệ môi trường cho doanh nghiệp; áp dụng các mô hình sản xuất sạch, sử dụng các nguyên liệu sạch, thân thiện với môi trường, thực hiện kiểm kê khí thải xe máy; khuyến khích người dân sử dụng các phương tiện di chuyển công cộng, sử dụng nhiên liệu xăng sinh học thay thế nhiên liệu truyền thống; tăng cường kiểm tra, giám sát chấp hành quy định pháp luật về bảo vệ môi trường không khí, xử phạt nghiêm những hành vi vi phạm của cơ sở sản xuất, kinh doanh dịch vụ, khu, cụm công nghiệp cũng như các hoạt động xây dựng.
Trao đổi về lĩnh vực này, Giám đốc Trung tâm Quan trắc ÔNKK, Sở TN-MT TPHCM Cao Tung Sơn cho biết, năm 2019, Sở TN-MT đã nhận được đề nghị của Ngân hàng Phát triển châu Á về việc thực hiện dự án TA 9068 - Nâng cao năng lực và hành động cải thiện chất lượng không khí cho thành phố, ngân sách tài trợ không hoàn lại cho hợp phần ở TPHCM là 250.000 USD. Dự án tập trung vào các nhiệm vụ chính như đánh giá tình hình chất lượng không khí hiện nay; đánh giá, lựa chọn chính sách và công nghệ hiệu quả để giải quyết chất lượng không khí; xây dựng kế hoạch hành động không khí sạch TPHCM (CAAP) cùng với ước tính đầu tư cho kiểm soát ÔNKK.
Nhiều ý kiến từ các chuyên gia, nhà khoa học cũng cho rằng, thành phố cần phải đẩy mạnh hoạt động kiểm kê phát thải khí thải khí nhà kính. Đẩy mạnh hoạt động này sẽ biết được nguồn ÔNKK từ đâu ra, ô nhiễm chất gì, ô nhiễm do cái gì. Trên cơ sở đó mới thiết kế kế hoạch kiểm soát chất lượng không khí hiệu quả, thiết lập các quy định và giấy phép phát thải, xả thải khí thải, xây dựng các giải pháp giảm thiểu ô nhiễm.
Không những thế, kiểm kê phát thải khí thải còn giúp chúng ta đánh giá các nhà máy, xí nghiệp hay chính sách giao thông mới, hoặc đang đề xuất thực hiện, có phù hợp với tiêu chuẩn chất lượng không khí xung quanh. Các kết quả này cũng được dùng để hỗ trợ trong việc thiết kế các chiến lược kiểm soát hiệu quả để giảm lượng phát thải các chất ÔNKK.
Theo Tiến sĩ Hoàng Dương Tùng, Chủ tịch Hội Không khí sạch Việt Nam, TPHCM cần tái đầu tư các trạm quan trắc và đầu tư thêm mạng lưới giám sát chất lượng môi trường không khí để có thể giám sát các thông số ÔNKK như CO, NO2, các hợp chất hữu cơ, các loại bụi mịn… Việc sử dụng các trạm quan trắc tự động giúp kiểm soát tình hình một cách chặt chẽ hơn: giúp cập nhật số liệu để kiểm soát trực tuyến, phát hiện các địa chỉ gây ô nhiễm nhanh và chính xác hơn. Song song với đó là các giải pháp kiểm soát được lượng phát thải xe gắn máy, khuyến khích mọi người sử dụng phương tiện công cộng.