Ngày nay, Việt Nam đã đạt những thành tựu về các lĩnh vực chính trị, kinh tế, xã hội, quốc phòng và đối ngoại, Đảng Cộng sản Việt Nam tiếp tục đóng vai trò quyết định trong công cuộc xây dựng và phát triển đất nước. Đảng lãnh đạo Nhân dân Việt Nam đạt được những thành tựu to lớn, không chỉ khẳng định vị thế quốc gia mà còn đóng góp cho sự nghiệp hòa bình, hợp tác và phát triển bền vững trong khu vực Đông Nam Á và trên trường thế giới.
Thành tựu trong bảo vệ độc lập và chủ quyền quốc gia
Trong suốt chiều dài lịch sử đấu tranh giải phóng dân tộc, dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, Nhân dân ta đã giành được nhiều chiến thắng vẻ vang, đánh bại những thế lực xâm lược, khẳng định độc lập dân tộc. Tiêu biểu là Chiến thắng Điện Biên Phủ (1954), một chiến thắng mang tính bước ngoặt quan trọng trong cuộc chiến đấu trường kỳ chống thực dân Pháp. Chiến thắng này không chỉ chấm dứt hơn 80 năm đô hộ của thực dân Pháp tại Việt Nam mà còn mở ra một giai đoạn mới trong sự nghiệp giải phóng dân tộc, tạo điều kiện thuận lợi cho việc ký kết Hiệp định Genève, đồng thời mở ra cơ hội để cách mạng Việt Nam bước vào một giai đoạn phát triển mới đầy triển vọng.
Tiếp theo đó, chiến dịch Tết Mậu Thân (1968) là một cuộc tấn công quyết định của quân đội và Nhân dân miền Nam, buộc đế quốc Mỹ phải thay đổi chiến lược chiến tranh, làm suy yếu ý chí của chúng, đồng thời tạo sức mạnh để đế quốc Mỹ bắt đầu tiến trình đàm phán hòa bình.
Chiến thắng ngày 30-4-1975 là đỉnh cao của cuộc kháng chiến chống Mỹ cứu nước, là sự kiện lịch sử quan trọng đánh dấu sự kết thúc chiến tranh, thống nhất đất nước, khôi phục chủ quyền quốc gia, mở ra một thời kỳ mới của hòa bình, độc lập và phát triển.
Trong công cuộc bảo vệ chủ quyền quốc gia, Đảng ta luôn coi trọng việc giữ vững chủ quyền lãnh thổ, đặc biệt là đối với biển đảo, nơi có tầm quan trọng chiến lược đối với an ninh quốc gia, bảo vệ nguồn tài nguyên thiên nhiên và phát triển kinh tế biển. Vấn đề Biển Đông từ lâu đã được Đảng và Nhà nước quan tâm, đặc biệt là trong những năm gần đây, khi các tranh chấp chủ quyền ở khu vực này diễn ra phức tạp hơn.
Đảng đã xác định rõ trong các nghị quyết và chỉ thị, như Nghị quyết Đại hội Đảng lần thứ XI chỉ rõ: “Mục tiêu, nhiệm vụ quốc phòng, an ninh là bảo vệ vững chắc độc lập, chủ quyền, thống nhất, toàn vẹn lãnh thổ; giữ vững chủ quyền biển, đảo, biên giới, vùng trời; bảo vệ Đảng, Nhà nước, Nhân dân và chế độ xã hội chủ nghĩa…”(1).
Đó là ý chí sắt đá, quyết tâm không gì lay chuyển được của dân tộc Việt Nam dưới sự lãnh đạo của Đảng và tại Nghị quyết Đại hội lần thứ XII tiếp tục khẳng định tầm quan trọng của việc bảo vệ chủ quyền biển đảo, bảo vệ tài nguyên và ngư trường quốc gia.
Ngoài việc sử dụng các biện pháp ngoại giao hòa bình, Đảng và Nhà nước ta cũng không ngừng tăng cường sức mạnh quốc gia, xây dựng lực lượng vũ trang hùng mạnh để bảo vệ chủ quyền biển đảo, đồng thời khai triển hoạt động tuyên truyền, vận động quốc tế, củng cố quan hệ chiến lược với các nước trong khu vực và trên thế giới. Đặc biệt, bảo vệ chủ quyền Biển Đông vẫn gắn liền với các thỏa thuận quốc tế, trong đó có Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển năm 1982(2) và Tuyên bố chung ASEAN - Trung Quốc về quá trình xử lý của các bên tại Biển Đông, nhấn mạnh nguyên tắc giải quyết tranh chấp bằng giải pháp hòa bình, tôn trọng quyền lợi hợp pháp của các quốc gia.
Thành công trong việc xây dựng và củng cố giá trị cốt lõi của hệ thống chính trị
Thành công trong việc xây dựng và củng cố giá trị cốt lõi của hệ thống chính trị Việt Nam trong những năm qua đã có thể xác định rõ qua hai yếu tố quan trọng: tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng và xây dựng hệ thống chính trị trong sạch, vững mạnh toàn diện, đặc biệt là trong công cuộc phòng chống tham nhũng và xây dựng Nhà nước pháp quyền xã hội chủ nghĩa.
Đầu tiên, việc tăng cường vai trò lãnh đạo của Đảng được xác định là nền tảng quan trọng để giữ vững sự phát triển kinh tế, bảo vệ an ninh quốc gia và củng cố hệ thống chính trị. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định vai trò lãnh đạo của mình trong các công cuộc đổi mới và phát triển đất nước, đồng thời bảo vệ và duy trì các giá trị xã hội chủ nghĩa. Các văn kiện Đại hội Đảng lần thứ XI, XII, XIII đều nhấn mạnh sự cần thiết phải bảo vệ và phát huy vai trò của Đảng trong mọi lĩnh vực đời sống xã hội, đặc biệt là trong việc định hướng phát triển đất nước bền vững.
Văn kiện Đại hội lần thứ XIII của Đảng tiếp tục khẳng định: “Củng cố quốc phòng, an ninh, bảo vệ vững chắc Tổ quốc Việt Nam xã hội chủ nghĩa là nhiệm vụ trọng yếu, thường xuyên của Đảng, Nhà nước, hệ thống chính trị và toàn dân, trong đó Quân đội nhân dân và Công an nhân dân là nòng cốt”(3). Sức mạnh tổng hợp tiếp tục được Đảng ta khẳng định nhất quán, là sức mạnh, lực lượng của toàn thể dân tộc, toàn Đảng, toàn dân và toàn quân dưới sự lãnh đạo của Đảng, trong đó lực lượng vũ trang nhân dân giữ vai trò nòng cốt. Đó còn là sức mạnh bên trong, kết hợp với sức mạnh bên ngoài, sức mạnh dân tộc kết hợp với sức mạnh thời đại.
Đặc biệt, điểm mới trong văn kiện lần này, Đảng ta đã xác định rõ phương hướng: “Xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, từng bước hiện đại, một số quân chủng, binh chủng, lực lượng tiến thẳng lên hiện đại”(4); trong đó, tiếp tục nhấn mạnh và chỉ rõ việc xây dựng Quân đội nhân dân và Công an nhân dân “vững mạnh về chính trị”.
Quan điểm trên thể hiện ý chí, quyết tâm và nỗ lực của Đảng ta trong suốt nhiều nhiệm kỳ Đại hội trước đó, nhằm xây dựng lực lượng vũ trang tinh nhuệ, hiện đại, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc. Tuy nhiên, ở văn kiện lần này, Đảng ta đã xác định rõ các mốc thời gian cụ thể là: Đến năm 2025, cơ bản xây dựng quân đội, công an tinh, gọn, mạnh, tạo tiền đề vững chắc, phấn đấu đến năm 2030 xây dựng Quân đội nhân dân, Công an nhân dân cách mạng, chính quy, tinh nhuệ, hiện đại. Đây là định hướng đặc biệt quan trọng trong thời gian tới để phát triển tiềm lực và sức mạnh của quân đội và công an, đáp ứng yêu cầu, nhiệm vụ bảo vệ Tổ quốc.
Thành công trong đối ngoại và hội nhập quốc tế
Chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ là một trong những yếu tố quan trọng tạo nên thành công trong quan hệ quốc tế của Việt Nam. Đảng Cộng sản Việt Nam luôn khẳng định chính sách đối ngoại độc lập, tự chủ, bảo vệ lợi ích quốc gia, đồng thời tăng cường hợp tác quốc tế vì hòa bình, ổn định và phát triển bền vững. Việc Việt Nam gia nhập các tổ chức quốc tế như Liên hợp quốc, ASEAN và WTO không chỉ mở rộng mối quan hệ với cộng đồng quốc tế mà còn góp phần nâng cao vị thế của đất nước trên trường quốc tế. Đặc biệt, Việt Nam đã thiết lập quan hệ đối tác chiến lược toàn diện với các cường quốc lớn như Mỹ, Trung Quốc, Nga và Nhật Bản, từ đó tạo ra cơ hội mới cho sự phát triển kinh tế, văn hóa và chính trị. Mối quan hệ này không chỉ đảm bảo an ninh và ổn định quốc gia mà còn hỗ trợ Việt Nam trong công việc hội nhập sâu rộng vào nền kinh tế toàn cầu.
Hội nhập kinh tế quốc tế là một lĩnh vực quan trọng khác trong chính sách đối ngoại của Việt Nam. Tham gia các Hiệp định thương mại quốc tế (FTA) như CPTPP, EVFTA và các tổ chức kinh tế quốc tế đã giúp Việt Nam tăng cường các cơ hội hợp tác kinh tế, mở rộng thị trường xuất khẩu và thu hút đầu tư nước ngoài. Các hiệp định này không chỉ góp phần vào sự tăng trưởng kinh tế của Việt Nam mà còn giúp bảo vệ lợi ích quốc gia trong bối cảnh toàn cầu hóa, khi nền kinh tế các quốc gia ngày càng phụ thuộc vào nhau. Việt Nam đã biết cách tận dụng các lợi thế từ hội nhập kinh tế để phát triển vững chắc, đồng thời nâng cao khả năng cạnh tranh của các doanh nghiệp trong và ngoài nước.
Ngoài ra, ngoại giao bảo vệ chủ quyền quốc gia là một trong những yếu tố quan trọng trong chính sách đối ngoại của Việt Nam.
Thành công trong xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội
Việt Nam, trong quá trình phát triển đất nước, đã đạt được những thành công vượt bậc trong việc xây dựng và phát triển văn hóa, xã hội. Điều này không chỉ thể hiện sự quan tâm của Đảng và Nhà nước đối với đời sống Nhân dân mà còn phản ánh nỗ lực không ngừng xây dựng một xã hội công bằng, văn minh và phát triển bền vững.
Đảm bảo quyền con người là một trong những mục tiêu trọng tâm của Đảng trong phát triển xã hội tại Việt Nam. Những tiến bộ trong việc bảo vệ quyền lợi con người, cải thiện chất lượng giáo dục và y tế, cũng như các chính sách xóa đói giảm nghèo đã tạo nên những bước chuyển mình mạnh mẽ trong việc nâng cao chất lượng cuộc sống của Nhân dân. Chính sách bảo vệ quyền lợi của người dân Việt Nam luôn được đảm bảo trên cơ sở Hiến pháp và các cam kết quốc tế, với mục tiêu bảo vệ quyền lợi và lợi ích hợp pháp của mọi công dân.
Bên cạnh đó, phát triển văn hóa, nâng cao dân trí là một yếu tố không thể thiếu trong sự nghiệp xây dựng và phát triển đất nước. Việc nâng cao trí tuệ, phát triển giáo dục, đào tạo nguồn nhân lực là một trong những ưu tiên hàng đầu trong chiến lược phát triển xã hội của Việt Nam.
Ngoài ra, việc xây dựng nền văn hóa Việt Nam tiên tiến, đậm đà bản sắc dân tộc cũng là một mục tiêu quan trọng trong phát triển văn hóa. Việt Nam không chỉ bảo tồn và phát huy các giá trị văn hóa truyền thống mà còn tích cực phát triển văn hóa hiện đại, gắn liền với các giá trị toàn cầu.
Dưới sự lãnh đạo của Đảng Cộng sản Việt Nam, đất nước đã đạt được những thành tựu vượt bậc trong tất cả các lĩnh vực quan trọng. Từ sự ổn định chính trị vững chắc, nền tảng kinh tế phát triển bền vững, đến việc cải thiện chất lượng cuộc sống và bảo vệ môi trường, Việt Nam đã vươn lên mạnh mẽ, khẳng định vị thế trên trường quốc tế.
Thành công trong công cuộc đổi mới và phát triển kinh tế
Kể từ năm 1986, Đảng Cộng sản Việt Nam đã lãnh đạo công cuộc đổi mới, chuyển từ nền kinh tế kế hoạch hóa tập trung sang nền kinh tế thị trường định hướng xã hội chủ nghĩa. Chính sách đổi mới không chỉ mang lại những thành tựu nổi bật trong công cuộc cải thiện chất lượng cuộc sống của người dân, mà còn góp phần nâng cao vị thế của Việt Nam trên trường quốc tế.
Một trong những thành tựu quan trọng nhất là tăng trưởng GDP ổn định, với mức tăng trưởng trung bình đạt 6-7% mỗi năm, giúp Việt Nam trở thành một trong những quốc gia có nền kinh tế phát triển nhanh nhất khu vực. Chính sách đầu tư nước ngoài cũng là một thành công lớn, khi Việt Nam thu hút hàng tỷ USD vốn FDI, nhờ vào những chính sách mở cửa thị trường và hội nhập kinh tế quốc tế.
(1) Văn kiện Đại hội XI Đảng Cộng sản Việt Nam, NXB CTQG, H.2011, tr.125.
(2) Công ước Liên hợp quốc về Luật Biển, ký kết ngày 10 tháng 12 năm 1982
(3) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.156
(4) Văn kiện Đại hội đại biểu toàn quốc lần thứ XIII, Sđd, t.I, tr.157 - 158
Tài liệu tham khảo
1. Tuyên bố ASEAN - Trung Quốc về cách ứng xử của các bên ở Biển Đông, Thư viện Pháp luật, https://thuvienphapluat.vn/van-ban/Van-hoa-Xa-hoi/Tuyen-bo-cach-ung-xu-cua-ben-o-bien-dong-do-Chinh-phu-cac-nuoc-thanh-122727.aspx.
2. Chỉ thị số 05-CT/TW ngày 15-5-2016 của Bộ Chính trị về đẩy mạnh học tập và làm theo tư tưởng, đạo đức, phong cách Hồ Chí Minh, https://tulieuvankien.dangcongsan.vn/he-thong-van-ban/van-ban-cua-dang/chi-thi-so-05-cttw-ngay-1552016-cua-bo-chinh-tri-ve-day-manh-hoc-tap-va-lam-theo-tu-tuong-dao-duc-phong-cach-ho-5005