1. Thơ văn yêu nước nói chung - bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc nói riêng - của Nguyễn Đình Chiểu là một hiện tượng độc đáo trong văn học Nam bộ, văn học Việt Nam giai đoạn giữa thế kỷ 19. Nói độc đáo bởi Nguyễn Đình Chiểu là người đầu tiên đưa hình tượng nhân dân - những người chỉ biết “côi cút làm ăn, riêng lo nghèo khó”, chẳng hề “quen cung ngựa”, “chưa bước tới trường nhung” tạc nên bản anh hùng ca bất hủ về “những người dân ấp, dân lân” bằng tấm lòng yêu nước nồng nàn, lòng căm thù giặc sâu sắc, mà “xông lên, liều mình như chẳng có” để “đốt nhà dạy đạo, chém đầu quan hai” chỉ bằng “ổ rơm con cúi và một lưỡi dao phay”.
Chúng ta luôn quen với nhận thức rằng: Nguyễn Đình Chiểu là nhà thơ lớn của nhân dân, được nhân dân tôn vinh, được nhân dân yêu quý, được nhân dân trân trọng. Và dường như, Nguyễn Đình Chiểu không hề có ảnh hưởng gì đến giới thượng lưu, giới tinh hoa của Nhà nước chính thống đương thời: triều đình Huế
Đọc lại quyển Nguyễn Đình Chiểu toàn tập của nhóm tác giả: Ca Văn Thỉnh, Nguyễn Sĩ Lâm, Nguyễn Thạch Giang và một số tư liệu lịch sử liên quan đến hoàn cảnh ra đời của bài văn tế này, chúng ta sẽ có thêm nhiều thông tin lý thú hơn về tầm ảnh hưởng của Nguyễn Đình Chiểu đến triều đình Huế. Hay nói cách khác, Nguyễn Đình Chiểu có là gì trong con mắt của triều đình không?
2. Nguyễn Đình Chiểu toàn tập viết: Bài Tế Cần Guộc sĩ dân trận vong văn được chép trong quyển Gia lễ của Huỳnh Tịnh Của, in tại Sài Gòn năm 1866 với nhan đề Văn tế vong hồn mộ nghĩa. Trên bài văn tế có mấy lời tiểu dẫn bằng chữ Hán đại ý: “Đêm rằm tháng mười một, năm Tự Đức thứ mười bốn, Thống quân Bùi Quang Mỗ đốc suất dân nghĩa binh đến Cần Giuộc đánh phá huyện của Tây, đốt được nhà thờ, nhà dòng của chúng, đâm trúng tri huyện Pháp cùng với một số lính Chà và, Ma ní. Nghĩa binh chết trận mười lăm người. Tú tài Nguyễn Đình Chiểu làm bài văn phụ tế”.
Trích dẫn tiếp:
Ông Lê Thọ Xuân trong “Nam kỳ tuần báo” số ra ngày 26-6-1904 có viết: “Năm này, ngày 13 tháng 11 annam (14-12-1861), cả ba xứ Cần Giuộc, Tân An, Gò Công bị Bonard đánh úp. Hai hôm sau, nhân đêm rằm, nghĩa binh ba xứ nhứt tề ứng khởi… Sau trận này, Đỗ Quang dạy Bùi Quang Diệu điếu tế nghĩa quân tử trận, vì vậy mà có bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc của Nguyễn Đình Chiểu. Bài này chẳng những chỉ dạy chạy cùng miền Cần Giuộc mà còn bay khắp cả các tỉnh trong nước do bộ Lễ ở Huế truyền đi”. (*)
Đối chiếu lại lịch sử kháng Pháp thời cận đại, những thông tin trên khá chính xác. Bùi Quang Diệu, tục gọi Đốc binh Là, quê làng Tân Thới, huyện Bình Dương, tỉnh Gia Định. Ông nguyên là cai tổng Cần Giuộc, tỉnh Long An, có lòng yêu nước. Khi giặc Pháp xâm chiếm Gia Định, ông tham gia chiến đấu trong hàng ngũ nghĩa quân, nên được cử làm thống binh. Chính ông đã chỉ huy trong trận Cần Giuộc vào đêm rằm tháng 11 năm Tân Dậu (16-12-1861). Đêm ấy, nghĩa quân ở ba nơi Cần Giuộc, Tân An, Gò Công nhất tề tấn công quân Pháp. Ông trực tiếp chỉ huy nghĩa quân Cần Giuộc dũng cảm chiến đấu tại khu chợ Trường Bình.
Trong trận này, nghĩa quân hy sinh 27 người. Ông nhận lệnh của tuần phủ Gia Định là Đỗ Quang tổ chức lễ truy điệu, tưởng nhớ các liệt sĩ, đồng thời khích lệ quân dân. Bài Văn tế nghĩa sĩ Cần Giuộc do Nguyễn Đình Chiểu soạn được đọc trong lễ này, gây xúc động vô cùng.
Như vậy, có thể khẳng định, về mặt hành chính, lễ truy điệu và bài văn tế không phải tự phát mà có sự chỉ đạo hẳn hoi. Đặc biệt, bài văn tế sau đó được chỉ đạo phổ biến (dạy chạy) không chỉ ở Cần Giuộc mà còn đi khắp các tỉnh do bộ Lễ (tức cấp trung ương) truyền lệnh. Nó không chỉ có tầm ảnh hưởng và gây xúc động vô cùng ở cấp địa phương mà khi đọc bài văn tế này, giới tinh hoa - những ông hoàng, bà chúa có lòng yêu nước, có tinh thần dân tộc - ở kinh thành cũng rất cảm động.
3. Nguyễn Đình Chiểu toàn tập, tập hai viết tiếp: “Bấy giờ, Miên Thẩm (Tùng Thiện Vương) và em của ông là bà Mai Am, khi đọc văn tế, có thơ đề cảm như sau:
Bài của Miên Thẩm:
Đọc Nguyễn Đình Chiểu điếu nghĩa dân tử trận quốc ngữ văn
Chiến trường hựu bả điếu văn khai,
Lạp đạp biên thanh nhất nhất lai,
Quốc ngữ danh tề Manh tả sử,
Quỉ hùng ca đáo Khuất Bình ai.
Yết cam trảm mộc kham thiên cổ,
Oán hạc đề viên tịnh kỷ hồi,
Chí cánh thư sinh không bút trận,
Báo quân chỉ thử diệc bi tai.
Dịch nghĩa:
Đọc bài văn quốc ngữ điếu nghĩa dân tử trận của ông Nguyễn Đình Chiểu
Lại cầm bài văn điếu chiến trường mở ra đọc,
Như nghe tiếng dồn dập từ biên giới mồn một đưa về.
Tiếng văn quốc ngữ của ông nổi ngang với Tả khâu Minh mắt mù làm sử,
Lời ca quỷ hùng của ông bằng được Khuất Nguyên điếu các người tử trận.
Nghĩa dân cầm sào làm cờ đẳn gổ làm giáo anh dũng sánh với ngàn xưa,
Mà đã thành con vượn kêu, con hạc oán bấy lâu nay,
Đến như người thư sinh dùng bút đánh giặc,
Báo ơn vua chỉ ngần ấy cũng khá thương lắm thay.
Bài của Mai Am:
Độc điếu nghĩa dân tử trận văn
Điếu văn tam phục trụng đê hồi,
Nghị phách từ phong tận khả ai.
Xích tử Cần vương năng địch khái,
Thư sinh dụng võ tích phi tài.
Yên mê chiến lũy Tây nhung mãn,
Nguyệt lãnh sa trường bạch cốt đôi.
Quốc ngữ nhất thiên truyền bất hủ,
Tuyệt thăng Quảng - hán yểm khô hài.
Dịch nghĩa:
Đọc bài văn điếu ba lần dạ bồi hồi khôn xiết,
Nghĩa khí mạnh lời văn hùng thật đáng
xót thương.
Người con đỏ lo Cần Vương tỏ lòng căm
hờn giặc,
Kẻ học trò lo dụng võ tiếc mình không đủ tài.
Mây mịt mờ nơi chiến lũy đầy giặc Tây,
Trăng lạnh soi chốn sa trường phơi đống xương trắng.
Một bài văn quốc ngữ truyền mãi
không quên,
Hơn việc thái thú Quảng Hán xây mồ chôn cất hài cốt khô.
Đọc hai bài thơ đề cảm của hai bậc “hoàng thân quốc thích”, có thể cảm nhận được rằng, bài điếu văn của Nguyễn Đình Chiểu không chỉ sống trong lòng nhân dân, mà dường như nó đã lan tỏa, tạo được sự đồng cảm sâu xa trong tâm hồn của giới tinh hoa chính thống. Họ cũng cảm động, cũng thán phục, cũng ngợi ca như chúng ta. Họ cũng nói Nguyễn Đình Chiểu “dùng bút đánh giặc”, họ cũng nói “đây là bài văn quốc ngữ truyền mãi không quên”.
Và như vậy, phải chăng thêm một góc nhìn, thêm một sự cảm nhận của những người yêu nước, thương dân, có tinh thần dân tộc trong triều đình Huế đối với văn thơ của ông, đã làm cho Nguyễn Đình Chiểu - nhà thơ lớn của nhân dân - vốn đã lớn, càng lớn hơn trong tầm vóc của mình.
(*) Trong các đoạn trích trên có một số chi tiết lịch sử và nhân vật cần làm rõ.