Ngoại giao Việt Nam: 80 năm “Dĩ bất biến, ứng vạn biến”, kiên cường, linh hoạt kiến tạo hòa bình

Hành trình 80 năm hòa quyện sức mạnh dân tộc và thời đại, kế thừa truyền thống hàng nghìn năm dựng nước và giữ nước, ngoại giao Việt Nam thời kỳ hiện đại luôn kiên định nguyên tắc độc lập, tự chủ, tự lực, tự cường, đặt lợi ích quốc gia – dân tộc lên hàng đầu.

Không chỉ bảo vệ thành quả cách mạng, ngoại giao Việt Nam còn góp phần định hình một trật tự quốc tế công bằng, dựa trên luật lệ, bảo vệ nguyên tắc bình đẳng giữa các quốc gia, không phân biệt nước lớn – nước nhỏ, và thúc đẩy tinh thần hợp tác, tương trợ lẫn nhau trong khu vực và trên thế giới.

Từ xuất phát điểm là một quốc gia thuộc địa chịu hai tầng áp bức của thực dân và phát xít, dưới sự lãnh đạo của Chủ tịch Hồ Chí Minh, nền ngoại giao non trẻ đã sớm khẳng định vai trò trụ cột trong bảo vệ chính quyền cách mạng và mở ra hướng tiếp cận linh hoạt, bản lĩnh, sẵn sàng “ứng vạn biến” trước thử thách.

4-nguyen-tac-ve-viec-treo-co-asean-va-su-dung-asean-ca-1402.jpg.jpg

Từ trong khói lửa chiến tranh: Kiên định mục tiêu độc lập và chủ quyền

Ngay sau thời điểm Quốc hội khóa I thông qua Hiến pháp đầu tiên khẳng định được tính chính danh của nước Việt Nam Dân chủ Cộng hòa vào tháng 11-1946, đứng trước áp lực tấn công quân sự tổng lực của các thế lực thực dân, ngoại giao Việt Nam đã liên tục phát huy tính chất pháp lý của hai Hiệp định Sơ bộ (6-3-1946) và Tạm ước (14-9-1946), dẫn chiếu đến các nguyên tắc trong Hiến chương Liên Hợp quốc để liên tục vận động dư luận khu vực và quốc tế lên án cuộc xâm lược phi nghĩa của thực dân Pháp.

Sự phối hợp giữa hai mặt trận ngoại giao và quân sự đã tạo nền tảng quan trọng giúp Việt Nam ta phát huy tối đa hiệu quả các thắng lợi trên chiến trường trở thành thắng lợi khiến đối phương suy giảm ý chí trên bàn đàm phán. Điển hình nhất là chiến thắng Điện Biên Phủ “lừng lẫy năm châu, chấn động địa cầu” được chuyển hóa thành kết quả Hiệp định Geneva năm 1954 buộc thực dân Pháp phải công nhận độc lập toàn vẹn lãnh thổ của ba nước Đông Dương, và sau đó là chiến thắng Điện Biên Phủ trên không dẫn đến việc Mỹ buộc phải ký kết Hiệp định Paris năm 1973 chấp nhận rút quân hoàn toàn khỏi miền Nam Việt Nam.

Đứng trước các thế lực thực dân – đế quốc hùng mạnh, ngoại giao Việt Nam không chỉ xuất sắc góp phần hoàn thành nhiệm vụ chiến lược “vừa đánh vừa đàm” mà còn ghi dấu ấn quan trọng trong lịch sử ngoại giao thế giới khi như một hình mẫu “ngọn cờ đầu” đánh bại cả chủ nghĩa thực dân kiểu cũ và kiểu mới, cổ vũ mạnh mẽ phong trào phản chiến trên toàn thế giới giúp thúc đẩy cao trào giải phóng dân tộc trong hai thập niên 60 và 70. Cao trào này cũng định hình nên xu hướng gắn kết giữa các nước nhỏ ở Á – Phi – Mỹ Latinh, củng cố nền tảng hợp tác giữa các quốc gia Nam Bán cầu về sau như một lựa chọn đối ngoại quan trọng giúp điều hòa các cực đối trọng trong quan hệ quốc tế.

Khép lại quá khứ, kiến tạo hòa bình

Dẫu mới bước ra khỏi khói lửa chiến tranh nhưng ngoại giao Việt Nam không chọn tư duy tích lũy hằn thù như nhiều quốc gia khác. Với phương châm “khép lại quá khứ, hướng đến tương lai”, với ảnh hưởng được ví như “trái tim của nhân loại, lương tri của loài người” trong mắt của dư luận tiến bộ quốc tế, Việt Nam đã chủ động tham gia đàm phán bình thường hóa quan hệ với các nước lớn có ảnh hưởng ở Bắc bán cầu, giải tỏa các rào cản cho tiến trình hội nhập quốc tế.

Cùng lúc đó, Việt Nam cũng tích cực thúc đẩy xu hướng kiến tạo hòa bình trong khu vực bằng thông qua Tuyên bố 4 điểm với ASEAN vào tháng 7-1976, ủng hộ lập trường hòa hợp giữa các quốc gia Đông Nam Á thể hiện qua Hiệp ước Thân thiện và Hợp tác ở Đông Nam Á (TAC) và Tuyên bố về sự hòa hợp ASEAN (Tuyên bố Bali) được ký kết nhân dịp Hội nghị cấp cao ASEAN lần thứ nhất tổ chức vào tháng 2-1976.

Tuy nhiên, bầu trời hòa bình vẫn chưa thể trong xanh, ngành ngoại giao nước nhà lại cùng cả dân tộc Việt Nam tiếp tục vượt qua hai cuộc chiến tranh biên giới Tây Nam và chiến tranh biên giới phía Bắc, đối phó với các hiểu lầm làm lung lay niềm tin của bạn bè khu vực và quốc tế trong bối cảnh các lệnh bao vây cấm vận kinh tế vẫn chưa được dỡ bỏ đến tận 20 năm sau đó.

Với các chủ trương đối ngoại thời kỳ Đổi Mới sau Đại hội Đảng lần VI (1986), nhất quán chủ trương “không làm thay” để tập trung công cuộc tái thiết đất nước sau chiến tranh, và “không làm theo” để không dẫm phải vết xe đổ dẫn đến sự sụp đổ của hệ thống xã hội chủ nghĩa kiểu cũ, ngay sau Hội nghị Paris về vấn đề Campuchia năm 1991, ngoại giao Việt Nam đã thành công khẳng định được lập trường kiến tạo hòa bình trước dư luận khu vực và quốc tế. Phải đến lúc này, tiến trình hội nhập khu vực cùng với xu hướng dỡ bỏ các lệnh cấm vận kinh tế mới được đẩy nhanh, hội tụ tất cả vào cột mốc tháng 7-1995 đưa Việt Nam trở thành thành viên chính thức của Hiệp hội ASEAN ngay sau khi bình thường hóa quan hệ với Mỹ.

Hội nhập, vươn mình trong bối cảnh mới

Kể từ cột mốc giải tỏa tất cả các “điểm nghẽn” trong quan hệ quốc tế, ngành ngoại giao đã phát huy tối đa năng lực trong tiến trình chủ động và tích cực hội nhập kinh tế quốc tế của cả nước ở cả ba chiều kích. Về chiều rộng, từ lập trường “thêm bạn bớt thù” ở Nghị quyết 13 năm 1988 trong Đại hội VI, phát triển thành phương châm “muốn là bạn”, đến “là bạn, là đối tác tin cậy, là thành viên có trách nhiệm” ở các kỳ Đại hội tiếp theo, Việt Nam đã thiết lập được quan hệ ngoại giao với 194 quốc gia, quan hệ kinh tế với hơn 230 quốc gia và vùng lãnh thổ, là thành viên của hơn 70 tổ chức khu vực và quốc tế, đã ký 17 FTA, có 15 di sản được UNESCO công nhận là Di sản Văn hóa Thế giới. Đảng ta cũng xây dựng quan hệ với hơn 230 chính đảng của 119 nước trên thế giới.

anh2-9883.jpg.jpg
Tổng Bí thư Tô Lâm phát biểu tại Lễ kỷ niệm 30 năm Việt Nam gia nhập ASEAN ngày 10-3-2025. Ảnh: TTXVN

Về chiều ngang, Việt Nam đang nỗ lực cùng ASEAN thiết lập mạng lưới gắn kết các quốc gia Nam Bán cầu mạnh về tài nguyên và nhân lực. Và về chiều sâu, từ một nước nhỏ thuộc địa Việt Nam đã vươn lên trở thành đối tác chiến lược toàn diện với tất cả các nước lớn ở Bắc Bán cầu dẫn đầu về công nghệ và vật lực trong tổng thể 12 đối tác chiến lược toàn diện, 8 đối tác chiến lược, và 14 đối tác toàn diện kể từ Đại hội X (2006). Thông qua mạng lưới gắn kết song phương các quốc gia ở Á – Phi – Mỹ Latinh và Á – Âu – Bắc Mỹ, Việt Nam đã tiên phong thúc đẩy sự định hình các cơ chế hợp tác liên khu vực ở cả hai khu vực Nam Bán cầu và Bắc Bán cầu có sự gắn kết chặt chẽ với khu vực Đông Nam Á, góp phần định hình sự gắn kết hài hòa về lợi ích không phân biệt nước lớn - nước nhỏ trong một trật tự quốc tế đa cực.

Như vậy, sau hành trình 80 năm trưởng thành và phát triển, ngoại giao Việt Nam đã trở thành mối nối không thể thiếu, tạo nên sự gắn kết giữa sức mạnh dân tộc và sức mạnh thời đại, định hình phong thái “ngoại giao cây tre Việt Nam”, từ trong môi trường khắc nghiệt vẫn vươn lên kiên cường, bền bỉ nhưng cũng vô cùng mềm dẻo và linh hoạt. Trong thực tiễn đối ngoại mới của kỷ nguyên vươn mình, đứng trước các thách thức và cơ hội mới, ngoại giao Việt Nam đã sẵn sàng đầy đủ thế và lực để viết tiếp hành trình của dân tộc, hiện thực hóa lời dạy của Chủ tịch Hồ Chí Minh “Ngoại giao ai thuận lợi hơn, là thắng”.

PGS.TS. BÙI HẢI ĐĂNG

Trung tâm Hàn Quốc học, Trường Đại học KHXH-NV, ĐHQG-HCM

Tin cùng chuyên mục