“Bây coi ít bữa ra sau hè rọc lá chuối, chuẩn bị gói bánh để tết cúng ông bà”. “Hôm qua, con ra thăm chừng rồi, ít bữa rọc là vừa luôn đó má”.
Nghe nội với tía nói chuyện, má với chị hai cũng lật đật ra sau bếp lo mớ đậu, mớ nếp để gói bánh tét. Má nói: “Nhanh ghê bây! Mới ăn tết đó mà quay qua, quay lại… tới tết nữa rồi!”
Bánh tét thì ngày nào cũng có thể ăn, ăn chơi cho vui miệng hay ăn no đều được, nhưng có lẽ chỉ ăn bánh tét vào ngày tết thì mới cảm nhận được hết những hương vị hòa quyện trong đòn bánh nhỏ. Mà hơn hết có lẽ là cái tình, cái nghĩa mà con cháu dâng lên cúng ông bà tổ tiên, tình cảm chắt chiu mà người bà, người mẹ gói ghém dành cho con, cho cháu trong nhà. Rồi hàng xóm láng giềng biếu nhau đòn bánh nhỏ cũng là chút tình chòm xóm với nhau.
Thật ra, gói bánh tét không nhất thiết phải cột bằng cọng lát hay cọng lạt từ cây chuối. Bánh tét cột bằng dây ni lông vừa nhanh, vừa tiện, dây nhiều màu, cột bánh rồi sẵn làm dấu luôn, để lúc đem đi luộc không bị lộn giữa nhân đậu với nhân chuối, rồi đậu mặn với đậu ngọt. Nhưng má không ưa dây ni lông. Má nói, gói bánh tét phải cột bằng cọng lạt thì mới khéo tay.
Cột đòn bánh xong, phần dây dư còn lại được tết tròn, để bánh tét luộc xong là treo lên cho ráo nước. Và cách cột dây lạt cũng tùy theo nhân của đòn bánh mà cột để làm dấu luôn. Bởi vậy, nên má dạy khéo tay là ở chỗ đó, chứ cột bằng dây ni lông thì dễ òm, nói làm chi nữa. Còn ý tía thì bánh tét luộc lâu, dây ni lông trong nước nóng ra mùi khó chịu, đòn bánh vớt ra không thơm mùi đậu, mùi nếp chín.
Bánh tét thường được gói trong ngày 29 tết để kịp có bánh cúng rước ông bà ngày 30 tết, rồi đem biếu bà con, chòm xóm ăn lấy thảo. Tờ mờ sáng, má với chị hai đã lục đục dưới bếp, lo xong phần xào nếp, tới công đoạn làm nhân bánh, tía phụ lau lá chuối, tước lạt rồi chuẩn bị lò củi, nồi nước để luộc bánh. Mỗi người phụ một tay, vừa làm vừa nói chuyện rôm rả từ đằng trước ra tới sau hè. Không khí tết vui nhất có lẽ là những ngày này, những ngày chộn rộn chuẩn bị bánh trái; rồi dọn dẹp nhà cửa trong ngoài. Mỗi thành viên trong nhà đều góp công vào, người dọn trên trước, người lo dưới bếp, người quét ngoài hè… thiếu món đồ nào lại gọi nhau í ới, rộn ràng. Cực mà vui!
Chiều tới tối, tía trực bên nồi nấu bánh tét, chốc lát má lại ra thăm chừng, nhắc tía châm thêm nước vô nồi bánh, rồi trở bánh để bánh chín đều. Mấy đứa nhỏ trong nhà cũng xúm xít theo nồi bánh tét của tía, lấy củi, xách nước để sẵn cho tía châm chừng nồi bánh. Bánh tét chín, vớt ra nóng hổi mùi nếp, mùi đậu hòa quyện cùng lá chuối thơm lừng, nghe mà đói bụng. Theo kinh nghiệm mà nội truyền lại cho má, bánh tét sau khi vớt từ nồi ra là cho liền vào nước lạnh để bánh nguội mà lá vẫn tươi, rồi ép cho bớt nước và treo lên chỗ nào thoáng mát trong nhà.
Những đòn bánh tròn đều, đẹp nhất, má lựa để riêng, ngày 30 tết, nội để lên bàn thờ cúng ông bà tổ tiên bên cạnh mâm cơm. Số bánh còn lại để trong nhà chút ít ăn mấy bữa tết và đem biếu bên nhà cô Năm, chú Sáu, bác Hai, bác Tư… Tía dạy “người ta ăn còn, mình ăn hết” nên bánh đem biếu cũng phải lựa đòn bánh ngon, đẹp, biếu có cặp có đôi cũng như một lời chúc may mắn đầu năm cho người nhận.
Bánh tét, củ kiệu, dưa hành, thịt kho… ăn kèm với nhau, cái vị đậm đà, thơm, béo ăn đến nỗi no căng bụng hồi nào không hay.
Cuộc sống thay đổi, ngày càng có nhiều loại bánh kẹo sang trọng, tây ta đủ loại để phục vụ nhu cầu ẩm thực ngày tết, hương vị của đòn bánh tét dung dị cũng có phần lép vế. Nhưng hễ nghe mùi bánh tét thì ắt hẳn đâu đó trong lòng người cũng gợi một nỗi nhớ tết quê nhà.