Sau khi phối hợp với lực lượng vũ trang và nhân dân các địa phương đập tan tập đoàn phòng ngự chiến lược của địch tại Vùng 1 chiến thuật, giải phóng hoàn toàn Thừa Thiên - Huế, Đà Nẵng và các tỉnh miền Trung Trung bộ, ngày 4-4-1975, Quân đoàn 2 (Binh đoàn Hương Giang) nhận lệnh hành quân khẩn cấp vào tham gia chiến dịch tiến công giải phóng Sài Gòn.
Quân Giải phóng tiến công vào thị xã Phan Rang, tỉnh Ninh Thuận.
Ngày 5-4-1975, cánh quân Duyên Hải thành lập. Lực lượng gồm Quân đoàn 2, Sư đoàn 3 (Quân khu 5) và các đơn vị vừa được Bộ Quốc phòng tăng cường: Sư đoàn 325, Sư đoàn 304, một số đơn vị pháo binh, xe tăng, cao xạ, công binh. Bộ Tư lệnh cánh quân do Trung tướng Lê Trọng Tấn làm Tư lệnh, Trung tướng Lê Quang Hòa làm Chính ủy. Ngay sau khi thành lập, cánh quân Duyên Hải khẩn trương hành tiến theo đường số 1về phía Nam.
Về phía chính quyền Sài Gòn, sau khi mất dải đồng bằng duyên hải miền Trung, ngày 5-4-1975, Tổng thống ngụy quyền Nguyễn Văn Thiệu công bố quyết định phối trí lại lực lượng tại mặt trận Ninh Thuận, Bình Thuận, thành lập 2 phòng tuyến cuối cùng của Quân khu 2 đặt dưới quyền chỉ huy của Tư lệnh Quân đoàn 3 Nguyễn Văn Toàn (sở chỉ huy tiền phương Quân đoàn 3 đóng tại sân bay Thành Sơn). Cùng ngày, Thiệu loan báo bổ nhiệm Chủ tịch Hạ viện Nguyễn Bá Cẩn vào chức vụ Thủ tướng thay Trần Thiện Khiêm.
Với quyết định trên, chính quyền và quân đội Sài Gòn hy vọng “có thể bảo vệ được nửa phía Nam của nước này và đi đến cuộc đàm phán “công bằng” với Hà Nội”. Tuy nhiên, khi phòng tuyến Phan Rang của địch chưa kịp thiết lập vững chắc thì cánh quân Duyên Hải và lực lượng vũ trang Quân khu 6 của ta đã áp sát các vị trí chuẩn bị xuất phát tiến công.
HỒ SƠN ĐÀI