Bắt mạch tìm bệnh
Bộ Công thương cho biết, đến nay, Việt Nam đã xuất khẩu hàng hóa sang hơn 200 quốc gia, vùng lãnh thổ, trong đó có 50 thị trường truyền thống, chủ lực. Thế nhưng, những thị trường này đang có nhiều biến động, gây khó khăn cho DN.
Thị trường Hàn Quốc hiện tăng trưởng nhanh nhu cầu thực phẩm giản tiện, dễ nấu, thay thế bữa ăn gia đình. Cùng đó là sự lên ngôi của sản phẩm tốt cho sức khỏe, tăng sức đề kháng như sản phẩm organic, thực phẩm dành cho người cao tuổi. Thị trường cũng chuộng sản phẩm thay thế thịt, bảo vệ môi trường với bao bì đóng gói hạn chế sử dụng nguyên liệu từ nhựa, mô hình môi trường, xã hội và quản trị (ESG). Không chỉ vậy, để sản phẩm được tiêu thụ tốt tại Hàn Quốc, ngoài chất lượng, hương vị còn cần yếu tố bổ trợ như ổn định sản xuất, an toàn trong chế biến, lưu thông. Những yếu tố này đòi hỏi sản phẩm của DN Việt Nam phải nâng chất và thích nghi với tình hình tiêu dùng mới của thị trường bạn.
Thị trường Trung Quốc được đánh giá là tiềm năng xuất khẩu của Việt Nam sau khi bỏ quy định phong tỏa phòng chống dịch Covid-19. Thế nhưng, hàng loạt tiêu chuẩn an toàn vệ sinh thực phẩm, rào cản kỹ thuật về danh mục hàng hóa cho phép nhập khẩu… đã làm nhiều DN trong nước gặp khó khăn hơn. Ông Nguyễn Minh Kế, Chủ tịch Hội Thanh nhôm định hình Việt Nam, cho biết thêm, hàng hóa xuất khẩu Việt Nam cũng phải đối mặt với sức ép cạnh tranh rất lớn với hàng hóa Trung Quốc trên thị trường thế giới.
Tương tự, tại khu vực châu Âu và châu Mỹ - vốn là 2 thị trường xuất khẩu chủ lực của Việt Nam, rất nhiều DN gặp khó với những thay đổi quy định xuất nhập khẩu. Ông Nguyễn Cảnh Cường, Tham tán thương mại Việt Nam tại Anh, cho biết, trào lưu ăn chay, sử dụng các sản phẩm nguồn gốc thực vật đang phát triển ở Anh và nhiều nước châu Âu. Tại thị trường châu Mỹ, ngoài tiêu chuẩn chất lượng, DN sản xuất, xuất khẩu phải chứng minh được trong hoạt động sản xuất có các yếu tố kinh tế tuần hoàn, sản xuất và tiêu dùng bền vững, áp dụng công nghệ, nguyên vật liệu, sử dụng năng lượng tái tạo...
Theo dự báo của các chuyên gia, trong thời gian tới, DN sẽ còn phải đối mặt với hàng loạt khó khăn khác như giá nguyên liệu tăng, tổng cầu trên thị trường giảm, thiếu nguồn nhân lực chất lượng cao. Đặc biệt, việc thiếu ổn định về chất lượng và chưa đầu tư đúng mức cho hoạt động xuất khẩu chính ngạch… cũng là rào cản rất lớn của DN.
Cứu doanh nghiệp phải như cứu hỏa
Theo thống kê kim ngạch xuất nhập khẩu 4 tháng đầu năm 2023, kim ngạch xuất khẩu hàng hóa ước đạt 108,57 tỷ USD, giảm 11,8% so với cùng kỳ năm 2022. Trong đó, kim ngạch xuất khẩu sang thị trường châu Mỹ, châu Âu, châu Phi, châu Đại Dương… cũng có mức giảm khoảng 3,7-20%. Khảo sát của Hiệp hội Doanh nghiệp TPHCM cho thấy, có 41,2% số DN được khảo sát cho biết đang gặp khó khăn do thị trường bị thu hẹp, 17,6% DN bị ảnh hưởng do giá nguyên liệu đầu vào tăng, 17,6% DN thiếu vốn kinh doanh và các khó khăn khác.
Thực tế này buộc các DN phải nghiên cứu, chuyển đổi sản xuất cho phù hợp. Ông Trần Như Tùng, Phó chủ tịch Hiệp hội Dệt may Việt Nam, chia sẻ, từ đầu năm đến nay, đơn hàng xuất khẩu ngành dệt may giảm hơn 50%. Yếu tố cốt lõi để cạnh tranh với hàng dệt may các nước lân cận không còn là giá rẻ mà là xanh hóa sản xuất. Điều này đòi hỏi các DN phải nhanh chóng tái đầu tư theo hướng xanh hóa, tái sinh, tái chế chất thải, chuyển đổi công nghệ sử dụng năng lượng hóa thạch sang năng lượng tái tạo và sử dụng nguyên vật liệu thân thiện với môi trường. Muốn làm được điều này, DN cần được hỗ trợ vốn vay. Ngân hàng Nhà nước cần triển khai sớm gói vay lãi suất ưu đãi để DN trả lương cho người lao động, giảm thuế, tiền thuê đất; nghiên cứu, đề xuất thay đổi điều kiện tiếp cận gói cấp bù lãi suất 2% và chỉ đạo các ngân hàng thương mại khẩn trương triển khai cho DN vay vốn.
Ở góc độ khác, nhiều ý kiến DN cho rằng, Chính phủ nên tăng cường đầu tư hạ tầng xanh. Trong đó, có chiến lược phát triển nguồn cung năng lượng tái tạo, hoàn thiện hành lang pháp lý để hình thành thị trường tín chỉ carbon, thị trường tái sinh... Đây là cơ sở chính yếu để DN chuyển đổi xanh hoặc tiếp cận kinh tế tuần hoàn, áp dụng giải pháp trung hòa carbon thông qua hình thức mua tín chỉ carbon để đảm bảo đáp ứng tiêu chuẩn rào cản xanh khi xuất khẩu.
Chính phủ cũng nên sớm hình thành và đa dạng nguồn vốn tín dụng xanh với lãi suất vay ưu đãi cho DN trong nước khi nguồn vốn này hiện khá phổ biến trên toàn cầu. Theo đó, DN các nước có thể tiếp cận vay vốn chuyển đổi xanh với lãi suất vay 0-4%, thấp hơn rất nhiều so với mức vay DN trong nước đang tiếp cận. Các DN cũng kiến nghị Bộ Công thương tăng cường xúc tiến thương mại, chương trình làm việc giữa Việt Nam và các quốc gia để mở rộng thị trường xuất khẩu thông qua tham tán thương mại, tập trung vào các quốc gia tham gia Hiệp định đối tác toàn diện và tiến bộ xuyên Thái Bình Dương (CPTPP) và EU... Hy vọng, với những giải pháp hỗ trợ nhanh và đồng bộ có thể giúp DN duy trì chỗ đứng trên thị trường.