Có “cầu” thì có “cung”
Hiện Việt Nam có hơn 90 triệu dân với tỷ lệ dân số trẻ, nhu cầu tiêu dùng tăng cao nên tài chính tiêu dùng ở Việt Nam là thị trường có tiềm năng rất lớn. Do vậy, cũng dễ hiểu khi xu hướng thành lập công ty tài chính (CTTC) được đẩy mạnh trong những năm qua và đặc biệt là làn sóng thâu tóm CTTC từ các ngân hàng. Tuy nhiên, bên cạnh những kênh tài chính truyền thống thì đây cũng là cơ hội cho các tổ chức “tín dụng đen” ra đời và hoạt động.
Hiện nay, thu nhập bình quân của người Việt Nam, chỉ 2.580 USD/người/năm. Với mức thu nhập bình quân như vậy trong một xã hội đang càng ngày càng phát triển thì nhu cầu tài chính càng ngày càng lớn và nhiều người phải đi vay tiêu dùng để chi phí cho sinh hoạt. Điều này cũng là bình thường và phản ánh đúng với thực trạng hiện nay, tức là có “cầu” thì sẽ có “cung”.
Nhiều người có nhu cầu, muốn vay ngân hàng hoặc các CTTC, song những đơn vị này thường yêu cầu điều kiện đi kèm là bắt buộc người vay phải chứng minh được các khoản thu nhập hoặc tài sản để trả nợ, nếu không chứng minh được nguồn trả nợ và không có sự bảo lãnh hay tài sản thế chấp thì thường rất khó có thể vay tiền. Do đó, với những người có nhu cầu vay tiền nhưng không tiếp cận được nguồn vốn ngân hàng, bắt buộc họ phải tìm đến kênh “tín dụng đen”.
Dĩ nhiên, “tín dụng đen” cũng có 2 mặt. Một mặt là kênh bổ sung cho các kênh tài chính truyền thống như ngân hàng và CTTC khi không đáp ứng được đầy đủ nhu cầu của thị trường, nhưng mặt khác “tín dụng đen” cũng xảy ra rất nhiều tiêu cực. Nhiều cá nhân, tổ chức “tín dụng đen” lợi dụng nhu cầu người vay để chiếm đoạt tài sản và có những biện pháp thu hồi nợ rất vô nhân đạo và vi phạm pháp luật.
Cơ chế thực thi pháp luật phải mạnh
Hiện nay, việc cho vay nếu được thực hiện bởi các ngân hàng và các CTTC thì đã có Luật Các tổ chức tín dụng quy định và điều chỉnh, mang tính chính thức và rất chặt chẽ. Nhưng “tín dụng đen” lại là các giao dịch dân sự. Việc cá nhân, tổ chức cho nhau vay tiền lại thuộc về phạm vi điều chỉnh của Bộ luật Dân sự, trong khi Bộ luật Dân sự lại không có quy định chặt chẽ về việc này. Cụ thể, trách nhiệm và bổn phận của người đi vay và người cho vay như thế nào, lãi suất và phương thức trả nợ ra sao, vấn đề pháp lý liên quan đến cho vay…, hiện nay trong luật vẫn còn bỏ ngỏ.
Bên cạnh Bộ luật Dân sự, thì Bộ luật Hình sự cũng có nhiều điều khoản chưa chặt chẽ. Ví dụ như: Điều 163 Bộ luật Hình sự, quy định tội cho vay lãi nặng đến nay đã tỏ ra không còn phù hợp. Điều luật này quy định: “Người nào cho vay với lãi suất cao hơn mức lãi suất cao nhất mà pháp luật quy định từ 10 lần trở lên có tính chất chuyên bóc lột, thì bị phạt tiền từ 1 lần đến 10 lần số tiền lãi hoặc phải cải tạo không giam giữ đến 1 năm”. Chế tài như vậy đủ mạnh.
Thực tế, hoạt động của các tổ chức “tín dụng đen” hiện nay diễn biến phức tạp hơn nhiều. Hoạt động của “tín dụng đen” đã đến mức độ báo động đỏ, tiền lãi tính phần trăm có thể lên đến hàng trăm phần trăm hoặc hàng ngàn phần trăm mỗi năm. Mức lãi cắt cổ này dẫn đến tình trạng nhiều người vay bị vỡ nợ, phá sản, mất khả năng thanh toán, tạo ra sự bất ổn của xã hội cũng như của thị trường tài chính nói chung.
Đặc biệt, “tín dụng đen” ảnh hưởng đến ngân hàng ở mức độ gián tiếp. Cụ thể, những người vỡ nợ vì “tín dụng đen” mà trước đó đã từng có giao dịch vay tiền với ngân hàng thì rất có thể khoản nợ của họ ngân hàng sẽ khó thu hồi được, dễ bị rơi vào nợ xấu. Vì vậy, “tín dụng đen” tiềm ẩn những nguy cơ rủi ro rất cao đối với hoạt động của các ngân hàng và làm méo mó thị trường tài chính.
Hiện nay, bên cạnh việc thiếu các quy định cụ thể trong luật thì Việt Nam đang thiếu và yếu về cơ chế thực thi pháp luật đối với “tín dụng đen”. Để kiểm soát, ngăn chặn “tín dụng đen”, cần phải có sự chung tay của nhiều cơ quan chức năng chứ không chỉ riêng ngành ngân hàng...
Rất nhiều người bị hại bởi những nhóm xã hội đen, những nhóm “tín dụng đen” với mức lãi suất “cắt cổ”, có khi chỉ vay vài chục triệu đồng nhưng trả lãi phạt sau nhiều năm vẫn còn nguyên nợ gốc. Những trường hợp này ở Việt Nam hầu như chưa có ai bị đưa ra tòa. Thậm chí, nếu ra tòa thì tòa án ở Việt Nam xử lý cũng rất chậm chạp.
Do đó, việc ban hành các điều khoản luật để kiện toàn hành lang pháp lý là điều kiện cần. Song điều kiện đủ là vấn đề thực thi chính sách pháp luật như thế nào, đây mới là điều quan trọng. Hiện nay, cơ chế thực thi chính sách pháp luật của Việt Nam vẫn còn rất yếu, do đó vấn đề kiểm soát và ngăn chặn “tín dụng đen” sẽ càng khó khăn hơn khi mà chính sách ban hành nhưng cơ chế thực thi lại rất yếu.