Cuối giờ chiều qua, 4-6, đại biểu (ĐB) Nguyễn Anh Trí, nguyên Viện trưởng huyết học - truyền máu Trung ương, tranh luận về vấn đề quản lý thuốc lá điện tử, đề nghị Bộ trưởng Bộ Công thương cho biết về các biện pháp phòng, chống buôn lậu và cách lấp khoảng trống pháp lý về thuốc lá mới hiện nay. “Liệu việc đẩy lùi thuốc lá mới có hiệu quả bởi tỷ lệ sử dụng ngày càng nhiều, kể cả tình trạng buôn bán”, ĐB Nguyễn Anh Trí đặt vấn đề.
Sáng 5-6, trả lời ĐB, Bộ trưởng Bộ Công thương Nguyễn Hồng Diên khẳng định, từ trước đến nay, Bộ Công thương luôn nhất quán quan điểm là cần bảo vệ sức khỏe người dân. Từ đó, bộ đề nghị Chính phủ dừng thông qua nghị định về thuốc lá thế hệ mới cho đến khi Bộ Y tế có đánh giá chính thức về tác hại của sản phẩm này. Theo Bộ trưởng, việc Bộ Công thương làm nghị định là trách nhiệm, căn cứ vào Luật Phòng, chống tác hại thuốc lá, chứ không phải “Bộ Công thương thích làm việc đó". Khi Bộ Công thương đang xây dựng dự thảo nghị định thì có ý kiến của Bộ Y tế nên đã dừng và được Thủ tướng chấp nhận.
“Nếu Bộ Y tế khẳng định thuốc lá mới có hại cho sức khỏe đến mức cần phải cấm thì Bộ Công thương sẽ ủng hộ cần sớm sửa đổi quy định pháp luật liên quan để sản phẩm này không được lưu hành", Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên nhấn mạnh.
Bộ trưởng cũng cho hay Thủ tướng đã chỉ đạo Bộ Y tế tổng hợp các ý kiến và tiếp tục đề xuất việc sửa đổi các nghị định trong thời gian tới.
Trước đó, chiều 4-6, trả lời chất vấn, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên thừa nhận, kinh doanh thuốc lá là ngành nghề kinh doanh có điều kiện và được điều chỉnh bởi Luật Phòng, chống tác hại của thuốc lá. Sản phẩm thuốc lá thế hệ mới bao gồm cả thuốc lá điện tử và thuốc lá nung nóng chưa được định nghĩa cụ thể trong luật hiện hành. Do vậy, thời gian vừa qua đang tồn tại khoảng trống pháp lý trong công tác quản lý nhà nước đối với sản phẩm này. Bộ Công thương chưa cấp phép kinh doanh thuốc lá thế hệ mới cho bất kể đơn vị nào.
Bộ đã chỉ đạo lực lượng quản lý thị trường các địa phương đấu tranh, thu giữ nhiều sản phẩm thuốc lá điện tử không rõ nguồn gốc.
Trong sáng 5-6, một số đại biểu tiếp tục chất vấn về giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp ngành công nghiệp hỗ trợ (đây cũng là vấn đề mà nhiều ĐB chất vấn chiều 4-6).
ĐB Hồ Thị Kim Ngân (Bắc Kạn) và một số ĐB chất vấn về giải pháp hỗ trợ doanh nghiệp trong ngành công nghiệp hỗ trợ. Theo ĐB Hồ Thị Kim Ngân, hiện nay ngành công nghiệp hỗ trợ có khoảng 1.500 doanh nghiệp, chủ yếu hoạt động trong lĩnh vực cơ khí, điện và điện tử, nhựa, cao su và hóa chất. Tuy nhiên, vừa qua, sức khỏe của doanh nghiệp suy giảm khá nghiêm trọng về doanh thu, tình trạng mất đơn hàng từ nhiều thị trường đang diễn ra và hiện nay đang gặp hai nút thắt rất lớn về vốn và chi phí. Trong khi đó, làn sóng đổ bộ công nghiệp hỗ trợ của nhiều nước vào Việt Nam đang diễn ra với quy mô lớn và rất nhanh. Điều này cho thấy, doanh nghiệp công nghiệp hỗ trợ chưa kịp lớn để có thể tham gia vào chuỗi cung ứng sản xuất toàn cầu. ĐB đề nghị Bộ trưởng cho biết quan điểm về vấn đề này và giải pháp để hỗ trợ các doanh nghiệp trong thời gian tới.
Về công nghiệp hỗ trợ, Bộ trưởng Nguyễn Hồng Diên cho biết, bộ đã tập trung vào 3 lĩnh vực chủ yếu: linh kiện phụ tùng; công nghiệp hỗ trợ cho dệt may; công nghiệp hỗ trợ cho những ngành công nghệ cao. Sau 6 năm triển khai thực hiện Quyết định 68/QĐ-TTg về chương trình phát triển công nghiệp hỗ trợ, từ năm 2016 đến năm 2025 (với mục tiêu cần đạt được là sản phẩm công nghiệp hỗ trợ đáp ứng khoảng 45% nhu cầu cho sản xuất nội địa), chúng ta đã đạt được một số kết quả nhất định.
Tuy nhiên một số sản phẩm đạt kết quả thấp hơn so với mục tiêu chung như ngành điện tử tin học, viễn thông, điện tử chuyên dụng, các ngành công nghiệp công nghệ cao trong nước cũng đạt mục tiêu chưa cao…
Nguyên nhân một số sản phẩm đạt kết quả thấp hơn so với mục tiêu đề ra là do nguồn lực đầu tư hỗ trợ của nhà nước còn hạn chế, khó tiếp cận; chính sách thu hút FDI chưa khuyến khích được sự liên kết, ràng buộc được các doanh nghiệp nước ngoài và doanh nghiệp trong nước; ngành công nghiệp hỗ trợ cơ khí thu hút đầu tư là rất khó bởi vì vốn lớn nhưng thị trường hẹp, Việt Nam là nước đi sau nên khả năng cạnh tranh với thị trường nước ngoài là khó khăn; phối hợp thực hiện chính sách giữa các bên chưa thật tốt…
Mặt khác, hiện nay, các doanh nghiệp FDI đến Việt Nam đều có kinh nghiệm đạt được tiêu chuẩn về chất lượng sản phẩm, môi trường. Trong khi doanh nghiệp ở trong nước dù có cơ chế nhưng chưa thể tiếp cận được những tiêu chuẩn như trên.
Về giải pháp cho thời gian tới, Bộ trưởng cho rằng, cần hoàn thiện đồng bộ chính sách, trong đó có việc nghiên cứu xây dựng Luật Công nghiệp trọng điểm; tăng cường phân bổ nguồn lực từ Trung ương và địa phương; bố trí đủ nguồn lực cho công nghiệp hỗ trợ đến năm 2025 và các giai đoạn tiếp theo; đào tạo nhân lực chất lượng cao…
Bên cạnh đó, các địa phương cần có sự hỗ trợ về nguồn vốn, các điều kiện về cơ sở hạ tầng, đào tạo nguồn nhân lực và các điều kiện khác. Ngoài ra, cần sửa đổi Luật Đầu tư nước ngoài và các luật có liên quan để các doanh nghiệp FDI phải có sự ràng buộc, hợp tác, liên kết với doanh nghiệp trong nước nhằm từng bước nội địa hóa sản phẩm ở trong nước..